Theo Tờ trình, về quan điểm và mục tiêu, việc sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh là để quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng tại các Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp ĐVHC các cấp và tổ chức mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà
Việc sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh phải bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị; việc thực hiện phải thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học, có cách làm phù hợp bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; có tầm nhìn dài hạn, bảo đảm ổn định lâu dài; phát huy tiềm năng, lợi thế, mở rộng không gian phát triển của ĐVHC; tạo điều kiện để mỗi địa phương và cả nước phát triển đồng đều, nhanh, mạnh và bền vững, hình thành các trung tâm kinh tế mới có sức cạnh tranh cao hơn ở tầm khu vực và trên thế giới.
Việc sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh nhằm tái cấu trúc không gian phát triển tự nhiên và kinh tế - xã hội, gắn kết về lịch sử, văn hoá, xã hội đi đôi với đổi mới, nâng cao năng lực quản trị, làm cơ sở đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong giai đoạn mới.
Bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị và sự đồng thuận trong Nhân dân.
Nguyên tắc sắp xếp là quán triệt nghiêm túc chủ trương của Đảng về sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh tại Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII và căn cứ theo nguyên tắc, định hướng tiêu chuẩn của ĐVHC cấp tỉnh sau sắp xếp quy định tại Nghị quyết số 76/2025/UBTVQH15 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Sẽ có 06 thành phố trực thuộc trung ương và 28 tỉnh sau sắp xếp ĐVHC
Trên cơ sở quan điểm, nguyên tắc sắp xếp, căn cứ vào hiện trạng và định hướng phát triển của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, Đề án của Chính phủ xác định, cả nước có 52 ĐVHC cấp tỉnh thực hiện sắp xếp (gồm: 04 thành phố và 48 tỉnh); có 11 ĐVHC cấp tỉnh không thực hiện sắp xếp (gồm: 10 ĐVHC cấp tỉnh đủ tiêu chuẩn theo quy định và 01 tỉnh chưa đủ tiêu chuẩn nhưng có yếu tố đặc thù).
Tờ trình cũng nêu 23 phương án sắp xếp đối với 52 ĐVHC cấp tỉnh để hình thành 23 ĐVHC cấp tỉnh mới, cụ thể:
Nhập tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Tuyên Quang, có diện tích tự nhiên là 13.795,50 km2, quy mô dân số 1.865.270 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Tuyên Quang hiện nay.
Nhập tỉnh Yên Bái và tỉnh Lào Cai thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Lào Cai, có diện tích tự nhiên 13.256,92 km2, quy mô dân số 1.778.785 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Yên Bái hiện nay.
Nhập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên thành tỉnh mới, có tên gọi là tỉnh Thái Nguyên có diện tích tự nhiên 8.375,21 km2, quy mô dân số 1.799.489 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
Nhập tỉnh Vĩnh Phúc, tỉnh Hoà Bình và tỉnh Phú Thọ thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Phú Thọ, có diện tích tự nhiên 9.361,38 km², quy mô dân số 4.022.638 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Nhập tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Bắc Ninh, có diện tích tự nhiên 4.718,6 km2, quy mô dân số 3.619.433 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Bắc Giang hiện nay.
Nhập tỉnh Thái Bình và tỉnh Hưng Yên thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Hưng Yên, có diện tích tự nhiên 2.514,81 km2, quy mô dân số 3.567.943 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Hưng Yên hiện nay
Nhập tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng thành thành phố mới có tên gọi là thành phố Hải Phòng, có diện tích tự nhiên 3.194,72 km2, quy mô dân số 4.664.124 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại thành phố Hải Phòng hiện nay.
Nhập tỉnh Hà Nam, tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Định thành tỉnh mới có tên gọi là Ninh Bình, có diện tích tự nhiên 3.942,62 km2, quy mô dân số 4.412.264 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Nhập tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Trị thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Trị, có diện tích tự nhiên 12.700 km2, quy mô dân số 1.870.845 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Nhập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành thành phố mới có tên gọi là thành phố Đà Nẵng, có diện tích tự nhiên 11.859,59 km2, quy mô dân số 3.065.628 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Nhập tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Ngãi, có diện tích tự nhiên 14.832,55 km2, quy mô dân số 2.161.755 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
Nhập tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Gia Lai, có diện tích tự nhiên 21.576,53 km2, quy mô dân số 3.583.693 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Bình Định hiện nay.
Nhập tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hoà thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Khánh Hoà, có diện tích tự nhiên 8.555,86 km2, quy mô dân số 2.243.554 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Khánh Hoà hiện nay.

Nhập tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Đắk Nông và tỉnh Bình Thuận thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Lâm Đồng, có diện tích tự nhiên 24.233,07 km2, quy mô dân số 3.872.999 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
Nhập tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Phú Yên thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đắk Lắk, có diện tích tự nhiên 18.096,40 km2, quy mô dân số 3.346.853 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Nhập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh thành thành phố mới có tên gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, có diện tích tự nhiên 6.772,59 km2, quy mô dân số 14.002.598 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Nhập tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Phước thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Nai, có diện tích tự nhiên 12.737,18 km2, quy mô dân số 4.491.408 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Nhập tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Tây Ninh, có diện tích tự nhiên 8.536,44 km2, quy mô dân số 3.254.170 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Long An hiện nay.
Nhập thành phố Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang thành thành phố mới có tên gọi là thành phố Cần Thơ, có diện tích tự nhiên 6.360,83 km2, quy mô dân số 4.199.824 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại thành phố Cần Thơ hiện nay.
Nhập tỉnh Bến Tre, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Vĩnh Long, có diện tích tự nhiên 6.296,2 km2, quy mô dân số 4.257.581 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Vĩnh Long hiện nay.
Nhập tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Tháp, có diện tích tự nhiên 5.938,64 km2, quy mô dân số 4.370.046 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Tiền Giang hiện nay.
Nhập tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Cà Mau, có diện tích tự nhiên 7.942,39 km2, quy mô dân số 2.606.672 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Cà Mau hiện nay.
Nhập tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang thành tỉnh mới có tên gọi là tỉnh An Giang, có diện tích tự nhiên 9.888,91 km2, quy mô dân số 4.952.238 người, trung tâm chính trị - hành chính đặt tại tỉnh Kiên Giang hiện nay.
Kết quả sau sắp xếp, cả nước có 34 ĐVHC cấp tỉnh gồm 06 thành phố trực thuộc trung ương (gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh) và 28 tỉnh (gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Lào Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hưng Yên, Ninh Bình, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Gia Lai, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đồng Nai, Tây Ninh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cà Mau, An Giang).
Phương án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị sau khi sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh
Theo Tờ trình, đối với khối Đảng, đoàn thể, thành lập Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau sắp xếp trên cơ sở hợp nhất số lượng đảng viên, tổ chức đảng trực thuộc của các tỉnh uỷ, thành uỷ trước sắp xếp.
Chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, thành phố sau sắp theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ và hướng dẫn của Trung ương.
Thành lập cơ quan tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy/Thành uỷ trực thuộc trung ương sau sắp xếp trên cơ sở hợp nhất các cơ quan, đơn vị có chức năng tương đồng của Tỉnh ủy/Thành uỷ trước sắp xếp.
Thành lập cơ quan Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của ĐVHC mới sau sắp xếp trên cơ sở hợp nhất Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của các ĐVHC trước sắp xếp. Việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh sau sắp thực hiện theo hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.

Đối với khối chính quyền, chính quyền địa phương của ĐVHC cấp tỉnh mới gồm có HĐND và UBND, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi).
HĐND các tỉnh sau sắp xếp thành lập 03 Ban là Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội (đối với tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số có thể thành lập thêm Ban Dân tộc). HĐND thành phố trực thuộc trung ương thành lập 04 Ban (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội và Ban Đô thị) theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi).
Các sở, cơ quan tương đương sở thì hợp nhất các sở, cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tương đồng.
Một số cơ quan chuyên môn đặc thù thuộc UBND cấp tỉnh (không tổ chức đồng nhất giữa các tỉnh, thành phố cùng thực hiện sắp xếp) thì cơ bản giữ nguyên mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và biên chế để bảo đảm thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn ĐVHC cấp tỉnh mới sau sắp xếp.
Sau sắp xếp, UBND cấp tỉnh tổ chức tối đa 14 Sở và tương đương (riêng Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức tối đa 15 Sở và tương đương).
Hợp nhất Đoàn Đại biểu Quốc hội của các tỉnh, thành phố trước sắp xếp thành Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh, thành phố sau sắp xếp và tiếp tục hoạt động cho đến hết nhiệm kỳ.
Cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong các sở, cơ quan sẽ hợp nhất các phòng chuyên môn nghiệp vụ, các chi cục có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Chuyển chức năng thanh tra các sở về Thanh tra tỉnh và tổ chức lại Thanh tra tỉnh (theo đề án của Trung ương về sắp xếp cơ quan thanh tra).
Về đơn vị sự nghiệp công lập, hợp nhất các đơn vị sự nghiệp phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản lý nhà nước có cùng chức năng nhiệm vụ; giữ nguyên các đơn vị sự nghiệp công lập y tế, giáo dục trên địa bàn; đối với các đơn vị sự nghiệp công lập khác trực thuộc UBND tỉnh và trực thuộc các sở, cơ quan thì thực hiện theo hướng dẫn của cấp có thẩm quyền. Sau sắp xếp, Chính phủ sẽ giao Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới quy định liên quan đến tổ chức hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập để bảo đảm hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Đối với các cơ quan trung ương trên địa bàn, Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành trung ương phối hợp chặt chẽ với các địa phương để sắp xếp, kiện toàn các cơ quan trung ương thuộc ngành, lĩnh vực đóng trên địa bàn đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, theo tổng hợp từ các Đề án của địa phương, tổng biên chế cán bộ, công chức, viên chức được giao của các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh thuộc 52 tỉnh, thành phố thực hiện sắp xếp: 937.935 người (gồm: 37.447 cán bộ, 130.705 công chức, 769.783 viên chức).
Phương án bố trí, sắp xếp số lượng cán bộ, công chức, viên chức của cấp tỉnh sau sắp xếp tối đa không vượt quá tổng số cán bộ, công chức, viên chức (số có mặt) của cấp tỉnh trước sắp xếp và thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm trong thời hạn 05 năm cơ bản bố trí theo đúng quy định.
Sau khi chính quyền địa phương cấp tỉnh đi vào hoạt động, Chính phủ sẽ phối hợp với các cơ quan tham mưu của Đảng, các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan căn cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh để xây dựng vị trí việc làm trình cấp có thẩm quyền giao biên chế cán bộ, công chức, viên chức cho địa phương.

Bảo đảm tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bố trí trụ sở, tài sản công sau sắp xếp
Tổng hợp theo số liệu báo cáo tại Đề án của các tỉnh, thành phố, tổng số trụ sở công cấp tỉnh của 52 tỉnh, thành phố thực hiện sắp xếp là 38.182 trụ sở; số lượng trụ sở công dự kiến tiếp tục sử dụng là 33.956 trụ sở; số lượng trụ sở công dự kiến dôi dư là 4.226 trụ sở.
Việc bố trí, sử dụng trụ sở, xử lý tài chính, tài sản công sau sắp xếp ĐVHC cấp tỉnh sẽ thực hiện theo quy định của Chính phủ về sắp xếp lại, xử lý tài chính, tài sản công và hướng dẫn của Bộ Tài chính; bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tại các Đề án, UBND các tỉnh, thành phố thực hiện sắp xếp đã có phương án, kế hoạch sắp xếp, bố trí, sử dụng, đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc, bảo đảm điều kiện làm việc của các cơ quan, tổ chức, đơn vị tại ĐVHC cấp tỉnh mới.