Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Đảng cầm quyền hay đảng chính trị (chính đảng) cầm quyền là vấn đề rất lớn, phổ biến trong lịch sử từ khi xuất hiện các đảng chính trị ở các nước trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh để cùng phát triển hiện nay, vấn đề năng lực cầm quyền của các chính đảng cầm quyền ngày càng thu hút sự quan tâm đặc biệt của các đảng chính trị, các nhà nghiên cứu trên thế giới.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta và trở thành Đảng cầm quyền sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đảng đã lãnh đạo đưa nước ta từ nước thuộc địa, nửa phong kiến thành nước độc lập; đưa dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ trở thành người chủ đất nước.
Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng tập trung lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và giành thắng lợi; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cả nước tiến hành xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, từ khi trở thành Đảng cầm quyền đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua các thời kỳ cầm quyền, gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, của Đảng và nhiệm vụ của cách mạng. Mỗi thời kỳ cách mạng đặt ra cho Đảng những yêu cầu rất cao, cụ thể về năng lực cầm quyền và Đảng đã không ngừng phấn đấu vươn lên, đáp ứng tốt yêu cầu, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, xứng đáng là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cụ thể là: trong lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vừa lãnh đạo kháng chiến, vừa lãnh đạo kiến quốc đặt ra yêu cầu rất cao, cụ thể về năng lực cầm quyền đòi hỏi Đảng phải đáp ứng; trong lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc và lãnh đạo kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược đặt ra những đòi hỏi rất lớn, chưa từng có về năng lực cầm quyền của Đảng; trong lãnh đạo cả nước xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc theo mô hình tập trung, quan liêu bao cấp đến năm 1985, đặt ra nhiều vấn đề về năng lực cầm quyền của Đảng phải sửa đổi, đổi mới.
Trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp xây dựng CNXH trên đất nước ta và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đòi hỏi rất cao về năng lực cầm quyền của Đảng. Năng lực cầm quyền của Đảng trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế khác hẳn về chất với những đòi hỏi về năng lực cầm quyền của Đảng trong các thời kỳ cách mạng trước đây. Năng lực cầm quyền của Đảng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa có tiền lệ. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ để có cơ sở khoa học nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay.
Hiện nay, công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu, được tiến hành trong điều kiện có cả thời cơ, thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn, thách thức, đó là sự biến đổi rất phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực; việc bảo vệ vững chắc lãnh thổ, biên giới, vùng trời, nhất là biển đảo nước ta đứng trước những thách thức rất lớn; mặt trái của kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế tiếp tục tác động mạnh tới cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Đặc biệt, những tiêu cực, biểu hiện suy thoái nảy sinh trong nội bộ Đảng cầm quyền, hệ thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi chủ yếu do hạn chế, bất cập của Đảng về năng lực cầm quyền… Điều này, càng đòi hỏi cấp bách phải tập trung nghiên cứu tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
Từ khi ra đời lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi trở thành Đảng cầm quyền, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, Đảng ta luôn đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực cầm quyền nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng; trong đó tập trung vào việc xác định nội dung năng lực cầm quyền của Đảng, cụ thể hóa cho cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong hệ thống chính trị, trong các lĩnh vực đời sống xã hội… và đề ra các giải pháp nâng cao. Nhờ đó, năng lực cầm quyền của Đảng được nâng nên, trở thành nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, đặc biệt là những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới.
Tuy nhiên, so với yêu cầu công cuộc đổi mới xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, năng lực cầm quyền của Đảng còn có những bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, đó là: còn lúng túng trong xác định nội dung năng lực cầm quyền, chưa làm rõ và chỉ ra mối quan hệ giữa năng lực cầm quyền với năng lực lãnh đạo của Đảng; biểu hiện của năng lực cầm quyền của Đảng; những yếu tố chủ yếu tạo nên năng lực cầm quyền của Đảng và con đường hình thành, phát triển; năng lực cầm quyền của Đảng có lúc, có nơi bị giảm sút, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng...
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là những điều kiện cần và đủ để nâng cao khả năng thực hiện hiệu quả sự cầm quyền của Đảng, gồm: nâng cao khả năng nắm, giữ chính quyền; nâng cao khả năng phát huy vai trò của vị thế cầm quyền của mình; nâng cao khả năng sử dụng quyền tác động, chi phối hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức khác và Nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, nghị quyết của Đảng.
Những điều kiện cần và đủ để Đảng có khả năng nâng cao năng lực cầm quyền, đó là: phẩm chất, năng lực; phong cách, lề lối làm việc; ý thức tổ chức, kỷ luật; thái độ đối với Nhân dân của Đảng, các tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên; hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở được tổ chức khoa học. Đây là những yếu tố cần thiết bảo đảm cho Đảng nắm, giữ chính quyền, phát huy vai trò vị thế cầm quyền của mình trong xã hội; sử dụng hiệu quả quyền tác động, chi phối xã hội theo đường lối, quan điểm của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối ấy.
Vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xã hội được Nhân dân thừa nhận, suy tôn và được Hiến pháp nước ta khẳng định.
Từ thực tiễn thực hiện vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được, vẫn còn hạn chế, yếu kém và những vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải tiếp tục có những điều chỉnh phù hợp trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Một số giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời gian tới
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cụm từ “nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng” được nhấn mạnh nhiều lần khi đánh giá tình hình, phương hướng, nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ mới. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong tình hình hiện nay cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, của cán bộ, đảng viên.
Nội dung này bảo đảm cho mọi hoạt động của Đảng, các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chi phối và định hướng chính trị cho sự xây dựng, phát triển năng lực cầm quyền của Đảng, nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng, phát triển bền vững đất nước và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Bản lĩnh chính trị của Đảng, các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên được thể hiện tập trung ở sự trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên CNXH, mục tiêu, lý tưởng của Đảng; vững vàng, bình tĩnh, sáng suốt trong xử lý và xử lý tốt các tình huống chính trị xuất hiện trong thực tiễn; tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có chính kiến trước những vấn đề, quan điểm chính trị sai trái, xuyên tạc; đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với những quan điểm sai trái, thù địch; có chính kiến đối với những tiêu cực, suy thoái xuất hiện trong tổ chức đảng và trong xã hội.
Hai là, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu về lý luận chính trị, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; năng lực tư duy; kinh nghiệm tổ chức thực tiễn của Đảng.
Đây là một trong những yếu tố quan trọng, là cơ sở, nền tảng, điều kiện cần thiết nhất để Đảng nâng cao năng lực cầm quyền đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Đặc biệt, trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cán bộ, đảng viên, nhất là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cần có: trình độ văn hóa; lý luận chính trị, nắm vững những vấn đề cơ bản của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quản lý nhà nước; chuyên môn, nghiệp vụ; khoa học xã hội - nhân văn; thế giới đương đại, trong đó có chủ nghĩa tư bản hiện đại; kinh tế thị trường; khoa học lãnh đạo, quản lý; tin học, ngoại ngữ…
Năng lực tư duy của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu là tư duy chiến lược; có tầm nhìn xa, trông rộng; dự báo được sự vận động, phát triển của đất nước cũng như những diễn biến phúc tạp có thể xảy ra trong quá trình cầm quyền của Đảng, từ đó có những giải pháp giải quyết hiệu quả… Cùng với đó là trình độ tổ chức thực tiễn của Đảng góp phần không nhỏ nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Các cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu có nhiều năng lực tổ chức thực tiễn về công tác đảng; quản lý nhà nước; tuyên truyền, vận động, thuyết phục Nhân dân thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; năng lực xử lý các tình huống chính trị sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả cầm quyền của Đảng.
Ba là, tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng, của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng phải không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ. Từng bước sắp xếp tổ chức, bộ máy, biên chế cơ quan Đảng; điều chỉnh, bổ sung và quy định cụ thể, hợp lý hơn chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của mỗi tổ chức; tăng cường tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp. Tổ chức, bộ máy của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn là nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để thực hiện thắng lợi đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp trên cơ sở phân định rành mạch chức năng giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm tính độc lập tương đối về tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó có sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát lẫn nhau giữa cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng của cả hệ thống chính trị.
Bốn là, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, phong cách, lề lối làm việc của Đảng, các tổ chức đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thái độ đúng đắn của cán bộ, đảng viên đối với Nhân dân.
Ý thức tổ chức kỷ luật của Đảng thể hiện tập trung ở việc thực hiện nghiêm đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị mà cán bộ, đảng viên làm việc; quy định ở nơi cư trú; kỷ luật của các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên là thành viên. Ý thức tổ chức kỷ luật cùng với đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo nên một Đảng có đạo đức cách mạng trong sáng, trong sạch, lành mạnh; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh; là những tấm gương về đạo đức, lối sống, kỷ luật, kỷ cương cho Nhân dân noi theo. Đảng sẽ tiếp tục được Nhân dân suy tôn là lực lượng duy nhất cầm quyền đưa đất nước phát triển, Nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đảng sẽ cuốn hút được hết thảy Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, Đảng sẽ hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của Đảng cầm quyền.
Phong cách, lề lối làm việc của của đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần quan trọng nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Các tổ chức đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên có phong cách làm việc khoa học: sâu sát thực tiễn; có thái độ đúng đắn với Nhân dân, gần dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân, lời nói đi đôi với việc làm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm cá nhân về những quyết định của mình, đoàn kết thân ái trong tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và Nhân dân; sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ… Điều này sẽ tạo nên sức hút đối với Nhân dân, sự liên kết chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng.
Năm là, xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng, các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Trung ương Đảng, cấp ủy các cấp; thực hiện các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng khoa học, tinh gọn; chức năng, nhiệm vụ rõ ràng, không có sự trùng lắp về các nội dung của chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức; đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng; hoạt động của các tổ chức đảng hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm triển khai đạt hiệu quả chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Tổ chức bộ máy của các ban tham mưu, giúp việc tinh gọn, chuyên sâu, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ là những chuyên gia tham mưu trên lĩnh vực xây dựng Đảng, có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Việc thực hiện nghiêm, hiệu quả các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật làm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, năng lực cầm quyền ngày càng cao, luôn được củng cố phát triển, đáp ứng yêu cầu của một Đảng cầm quyền đưa đất nước phát triển, nâng cao đời sống Nhân dân và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sáu là, phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, chính quyền các cấp, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Đảng tăng cường vai trò lãnh đạo, phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước. Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng cần được cụ thể hóa, thể chế hóa thành chính sách, luật pháp của Nhà nước. Chỉ khi bằng sức mạnh của Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, đường lối phát triển đất nước theo định hướng XHCN mới đi vào cuộc sống. Từ đó, các năng lực sản xuất trong xã hội mới được khơi dậy, phát huy để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đến lượt mình, những thành quả phát triển kinh tế - xã hội mới trở thành nền tảng vững chắc cho hệ thống chính trị.
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng mà thực chất là phục vụ lợi ích của Nhân dân, vì thế, đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng để nhằm tạo mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Quan điểm dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng được thể hiện trước hết ở việc xây dựng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vì lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Vì thế, việc phát huy vai trò của Nhân dân trong tham gia góp ý, đặc biệt là phản biện chính sách là cực kỳ quan trọng. Đây cũng là nét đặc biệt của thể chế chính trị có một đảng duy nhất cầm quyền. Đại diện nhân dân không chỉ là Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp mà còn thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Do đó, phải đổi mới căn bản không chỉ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội mà còn phải đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đồng thời, khi có đường lối đúng của Đảng và pháp luật của Nhà nước được ban hành thì Nhân dân phải tham gia tích cực, có hiệu quả công tác giám sát việc thực thi. Điều này đòi hỏi phương thức cầm quyền của Đảng phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong hoàn thiện hệ thống thể chế để nhân dân tham gia thuận lợi, khả thi, hiệu lực và hiệu quả trong giám sát thực thi quyền lực mà chính nhân dân trao cho Nhà nước. Đó là đòi hỏi của đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng và yêu cầu thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” - nét đặc sắc của thể chế chính trị ở nước ta hiện nay./.
TS. Nguyễn Thị Tố Uyên, Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: lyluanchinhtri.vn