BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở - tiếp cận từ giác độ thể chế hóa quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa

12/01/2023 16:42

Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở với tỷ lệ tán thành rất cao. Đạo luật này là cơ sở chính trị, pháp lý rất quan trọng để thể chế hóa quan điểm của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng như từng bước xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội khóa XV biểu quyết thông qua ngày 10/11/2022, gồm 06 chương, 91 điều.

Sự hiện diện của một nền dân chủ và thực hành dân chủ là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền; là một trong những điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, qua đó thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, khẳng định trên thực tế quyền con người, quyền công dân, chủ quyền của Nhân dân theo nguyên tắc Hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, dân chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Trong đó, “là chủ” biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân; “làm chủ” là hành động của người dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức của người dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế nhà nước. Như vậy, dân chủ luôn được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Dân chủ gắn bó chặt chẽ với quyền con người, là nhu cầu tất yếu khách quan không thể thiếu của từng cá nhân cũng như cộng đồng, nhất là trong xã hội văn minh. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại và các chế độ khác nhau.

Nhân dân là người trực tiếp làm ra những giá trị vật chất và sáng tạo ra giá trị tinh thần. Trong lao động và cuộc sống, Nhân dân luôn gắn bó mật thiết trong một đơn vị, một tổ chức, cộng đồng, một địa bàn dân cư nhất định. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ chức thành 04 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở). Trong đó, cấp xã, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp… là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; là nơi kiểm nghiệm, phản ánh chính xác nhất tính đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao… 

Cơ sở là nơi diễn ra sự tiếp xúc trực tiếp mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với chính quyền, các thiết chế của bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, với cán bộ, công chức, viên chức điều hành, xử lý công việc hàng ngày; các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên phát sinh giữa Nhà nước với công dân và giữa công dân với nhau. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của con người trong các mối quan hệ được thực hiện trước hết ở cơ sở. Nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết, quyết định và kiểm tra, giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở theo Luật được thực hiện dưới hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, là hình thức Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động của một thiết chế ở cơ sở.

Tăng cường, hoàn thiện dân chủ, pháp luật về dân chủ, thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở là mục tiêu lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta. Dân chủ phải được ghi nhận, bảo đảm bởi pháp luật, dân chủ luôn gắn liền với pháp luật và thực hiện pháp luật. Việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán… của mỗi cộng đồng, nhà nước; dân chủ luôn gắn liền với kỷ cương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tầm quan trọng của dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở. Người cho rằng, việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, cơ sở, từng cán bộ, từng người dân và từng công việc phải cụ thể, rõ ràng. Vận động tất cả lực lượng, mỗi cán bộ, đảng viên, thậm chí những người dân có nhận thức đều phải có trách nhiệm làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong vị thế của người làm chủ. Để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”(1).

Thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở thực chất là việc thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở là một cơ chế đặc biệt, bao gồm cả các hình thức dân chủ như bầu cử và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử, các tổ chức, chức danh đại diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân ở cấp cơ sở; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các công việc trong đời sống cộng đồng ở cơ sở, cơ quan, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp...

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của Nhân dân trong quản lý nhà nước. Người nêu rõ: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được”(2), Nhà nước phải dựa vào lực lượng nhân dân, bảo đảm phương châm “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. Trong quá trình chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, mà minh chứng cụ thể và rõ ràng nhất là khi soạn thảo Hiến pháp năm 1959 đã tổ chức hai đợt lấy ý kiến Nhân dân với thời gian là bốn tháng. Người đánh giá: “Hai đợt thảo luận dự thảo Hiến pháp trong nhân dân là những cuộc sinh hoạt chính trị rất sôi nổi. Nhân dân đã hăng hái sử dụng quyền dân chủ của mình để xây dựng Hiến pháp của mình”.

Vấn đề Nhân dân giám sát hoạt động của Nhà nước, cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước xuất phát từ nguyên tắc quyền lực của Nhân dân là tối thượng, là quyền lực gốc. Cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực hiện thẩm quyền của mình là thực hiện quyền hạn do Nhân dân ủy thác. Vì vậy, để bảo đảm các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức không lạm quyền, không lộng quyền, không vượt ra sự ủy thác của Nhân dân, đòi hỏi Nhân dân phải giám sát việc thực hiện quyền lực đó. Điều này là đương nhiên trong mối quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn Nhà nước thực sự là Nhà nước dân chủ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì phải kiểm soát hoạt động của Nhà nước và chính Nhân dân phải là lực lượng hùng hậu thực hiện công tác kiểm soát, giám sát, kiểm tra. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người nêu rõ: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại. Muốn như thế, người lãnh đạo phải có mối liên hệ chặt chẽ giữa mình với các tầng lớp người, với dân chúng”(3). Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú ý đến trách nhiệm của công dân khi thực hiện kiểm tra, giám sát. Người nhắc nhở: “Nhà nước bảo đảm quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân”(4).

Tổng kết qua những năm tiến hành đổi mới đất nước, Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm của bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan giải quyết công việc cho dân và doanh nghiệp. Bộ máy chính quyền cơ sở nhiều nơi còn yếu kém”(5). Như vậy, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở có vai trò quan trọng trong việc mở rộng dân chủ, bảo đảm dân chủ được thực thi nghiêm túc trên thực tế.

Pháp luật, với vai trò là công cụ để giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực của mình đối với việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội và đấu tranh giai cấp, việc thực hiện pháp luật có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho quyền lực thực sự thuộc về giai cấp đó. Do đó, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở và việc thực hiện là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân. Thực hiện dân chủ ở cơ sở theo Luật là phương thức quản lý để bảo đảm trên thực tế các quyền dân chủ của Nhân dân. Nhân dân được hưởng quyền chính trị cơ bản nhất của công dân - quyền bầu cử. Theo quy định của pháp luật về chế độ bầu cử thì công dân được thực hiện quyền bầu cử của mình tại cơ sở xã, phường, thị trấn nơi cư trú. Đây là bước khởi đầu để thực hiện Nhà nước của Nhân dân. Nhân dân thiết lập nên bộ máy nhà nước của mình để quản lý, thực hiện quyền dân chủ đại diện thông qua hoạt động của đại biểu được dân bầu. Nhân dân có quyền bầu và bãi nhiệm các đại biểu dân cử nếu họ không còn được Nhân dân tín nhiệm và thực hiện cơ chế giám sát thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Cũng tại cơ sở, Nhân dân thực hiện các quyền cơ bản nhất được Hiến pháp quy định: quyền có nhà ở, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tiếp cận thông tin, quyền sản xuất, kinh doanh, quyền được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là nền tảng chính trị, pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật về dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng, từ đó góp phần hoàn thiện các thiết chế về dân chủ. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân đòi hỏi tuân thủ tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên tất cả các lĩnh vực diễn ra ở cơ sở không chỉ giúp cho pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, Nhân dân tự mình làm chủ trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội mà còn là nơi giám sát và phản ánh chất lượng, tính khoa học, khả thi, gần dân đối với các đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta.

Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu nhằm kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, chính quyền ở cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và hoạt động để Nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở đối với việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Mỗi khâu của quá trình thực hiện dân chủ đòi hỏi hệ thống chính trị cũng như mỗi tổ chức thành viên đều phải kiện toàn tổ chức, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Mỗi tổ chức thành viên, căn cứ chức năng, nhiệm vụ mà có các hình thức thực hiện khác nhau trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, song tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Dân chủ không chỉ là mục tiêu, động lực của cả hệ thống chính trị mà còn là nguyên tắc, là phong cách công tác của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, hội viên của các đoàn thể nhân dân. Dân chủ ở cơ sở là thước đo trình độ phát triển mọi mặt của mỗi cộng đồng dân cư. Thông qua việc thực hiện dân chủ ở cơ sở mà hệ thống chính trị ngày càng nâng cao năng lực tổ chức triển khai nhiệm vụ, phát triển và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận, đổi mới phương thức lãnh đạo, tập hợp đoàn viên, hội viên, điều hòa và gắn kết các nhóm lợi ích, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn được tháo gỡ và ngày càng thu hút được sự tham gia rộng rãi của người dân vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở và Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ bảo đảm và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ngày càng tốt hơn. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và phát triển kinh tế - xã hội thông qua các chính sách vĩ mô và vi mô. Trong những năm qua, hoạt động quản lý nhà nước của các cấp chính quyền đã được tách bạch với hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đối với chính quyền cơ sở, đây vừa là nơi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội, vừa là nơi chịu sự quản lý của chính quyền cấp trên. Các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn, ngắn hạn từ Trung ương đến địa phương đều có ảnh hưởng và triển khai trên địa bàn xã, phường, thị trấn, tại các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp... Bên cạnh đó, việc hoạch định các mục tiêu của xã, phường, thị trấn cũng được HĐND xã, phường, thị trấn thông qua. Những vấn đề mà Nhân dân quan tâm, được biết, được bàn, được kiểm tra, giám sát, thụ hưởng theo nội dung của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở bao gồm: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, quyết toán ngân sách, xây dựng cơ sở trường, trạm, các thiết chế văn hóa, công khai mức thuế, phí và lệ phí, vốn vay xóa đói, giảm nghèo, bình xét gia đình văn hóa, kế hoạch và phương án đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng triển khai các dự án trên địa bàn… đều là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng, miền.

Do đó, thực hiện Luật sẽ góp phần rất quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy, khi tài chính được công khai, minh bạch, Nhân dân được góp ý kiến và sẵn sàng đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, các công trình phúc lợi công cộng, đất đai được quản lý tốt, việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp được ủng hộ, công tác dồn điền đổi thửa tạo đà cho sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, công tác xã hội hóa trong giáo dục, y tế được đẩy mạnh thì các quyền của Nhân dân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế… được bảo đảm hơn. Việc thực hiện dân chủ luôn hướng tới tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp… cũng là cơ sở để giữ vững bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một bộ phận của pháp luật thực định, góp phần thực hiện chức năng duy trì trật tự, kỷ cương xã hội. Đạo luật này cùng với các chế định pháp luật khác về quyền con người, quyền công dân bảo đảm cho Nhân dân được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, các quyền về kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, tự do tôn giáo…; nghiêm cấm mọi hành vi gây mất dân chủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, với các chế tài răn đe, phòng ngừa và trừng trị nghiêm khắc những hành vi gây mất dân chủ, vi phạm quyền con người, quyền làm chủ của Nhân dân.

Với Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề về an ninh trật tự, xây dựng và tổ chức tự quản đời sống cộng đồng, chính quyền có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo, bảo đảm quyền dân chủ của Nhân dân. Thực tế chứng minh, ở địa phương, cơ sở nào thực hiện tốt dân chủ thì ở đó tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, vì sự ổn định, bình yên của từng cụm dân cư, góp phần xây dựng nên sự bình yên, ổn định của cả địa phương, quốc gia, dân tộc. Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, thực hiện dân chủ ở cơ sở là một giải pháp quan trọng góp phần “kiểm soát quyền lực nhà nước”. Chúng ta kiên trì thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, do đó, việc xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh là yêu cầu cơ bản, cốt lõi của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã xác định: dân chủ ở cơ sở là nền tảng, dân chủ ở trung ương có tính chất quyết định đối với việc xây dựng chính quyền của Nhân dân.

Với đạo luật này, thực hiện dân chủ ở cơ sở không còn là một khẩu hiệu chung chung mà đã trở thành những quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền của người dân, Nhân dân đã có công cụ pháp lý vững chắc để thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở. Người dân được biết, được bàn, được giải phóng sức sản xuất và sáng tạo, được kiểm tra, giám sát, tài chính được công khai, minh bạch hơn, hạn chế được những biểu hiện tự chuyển biến, tha hóa biến chất, tiêu cực, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn; làm thay đổi tác phong công tác của đa số cán bộ, công chức theo hướng tích cực hơn, trăn trở hơn với lợi ích của dân, sâu sát và tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, từ đó Nhân dân có điều kiện thực tế để thụ hưởng những thành tựu mà dân chủ mang lại cho họ. Thực hiện dân chủ cơ sở cũng đặt ra yêu cầu tất yếu đòi hỏi bộ máy nhà nước phải đẩy mạnh cải cách, thường xuyên đổi mới để ngày càng kiến tạo, có năng lực phục vụ Nhân dân tốt hơn.

Hiện nay, các yếu tố ảnh hưởng đến việc triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở rất đa dạng, phức tạp, có thể nhìn nhận dưới góc độ tác động bên trong và tác động bên ngoài như trình độ dân trí, văn hóa, ý thức pháp luật, yếu tố tâm lý, truyền thống, phong tục tập quán, lối sống, điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, yếu tố chính trị, hệ thống pháp luật, bộ máy nhà nước, quá trình hội nhập quốc tế… Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 thì Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành và thực hiện trên thực tế là rất thiết thực, thể chế hóa quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

TS. Nguyễn Đình Quyền, Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp, đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII

 

Nguồn: tcnn.vn

 

------------------------

Ghi chú:

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.233.

(2) Sđd, tập 15, tr.279.

(3) Sđd, tập 5, tr.325.

(4) Sđd, tập 12, tr.378.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65, Nxb CTQG-ST, bản DVD-ROM, tr.257.

Tìm kiếm