Bộ Nội vụ chính thức đưa hệ thống Cơ sở dữ liệu Quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức đi vào hoạt động, ngày 29/12/2022.
Nền hành chính nhà nước là một thể thống nhất các yếu tố hợp thành để thực hiện chức năng hành pháp và cung ứng dịch vụ công theo yêu cầu xã hội. Việc thiết kế tổ chức và vận hành nền hành chính nhà nước lại tùy thuộc vào thiết chế chính trị và điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội, môi trường cụ thể của mỗi quốc gia. Ở trạng thái tĩnh, nền hành chính được xác định bởi cấu trúc các yếu tố thể chế, tổ chức, đội ngũ công chức và tài chính công; còn kết quả vận hành những yếu tố này trong môi trường cụ thể là trạng thái động. Như vậy, tác động đến nền hành chính không phải chỉ là các yếu tố cấu thành, mà còn có sự chi phối của các yếu tố thuộc về môi trường hành chính.
Nhận diện các yếu tố tác động đến nền hành chính
Trên thực tế, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về giá trị của nền hành chính, các chủ thể đều có mục đích chung là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động hành chính. Đây là thước đo cơ bản nhất vừa phản ánh mục tiêu chung, vừa thể hiện trình độ quản trị các yếu tố cấu thành nền hành chính quốc gia. Muốn tạo lập nền hành chính nhà nước, phải có đủ các yếu tố mang tính nòng cốt như: hệ thống thể chế về tổ chức, hoạt động hành chính nhà nước và tài phán hành chính; cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) hành chính và chế độ công vụ; tài chính công và cơ chế quản trị tài chính. Cách thức huy động, sắp xếp và duy trì cơ chế hoạt động cho các yếu tố này đều ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực nền hành chính.
Nếu hoạt động của các yếu tố được vận hành theo cơ chế “cạnh tranh chống độc quyền” giữa các cơ quan trong hệ thống và với bên ngoài thì sẽ tạo động lực vượt trội trong quá trình củng cố năng lực hành chính. Mặc dù các yếu tố mang tính chủ quan đóng vai trò quyết định và ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực nền hành chính quốc gia, nhưng bị chi phối không nhỏ bởi các yếu khách quan thuộc môi trường hoạt động hành chính. Sự tác động của các yếu tố khách quan này vừa tạo ra những cơ hội, nhưng cũng làm xuất hiện những rào cản cho hoạt động hành chính. Vì vậy, các chủ thể hành chính phải chủ động kiến tạo, hoàn thiện các yếu tố chủ quan để tạo ra nhiều thời cơ và tránh những rủi ro.
Từ những bài học kinh nghiệm trong công cuộc đổi mới đất nước thời gian qua, chúng ta cần nhìn nhận về các yếu tố tác động đến năng lực nền hành chính theo hướng: 1) Đối với yếu tố thể chế và thủ tục hành chính (TTHC) phải lấy nhu cầu thực tế và xu thế vận động phát triển trong đời sống xã hội để thống nhất xây dựng quy định, quy trình quản lý phù hợp với mỗi quá trình hay đối tượng điều chỉnh, chứ không chỉ dựa vào yêu cầu quản lý của từng chủ thể hành chính cục bộ như hiện nay; 2) Đối với hệ thống tổ chức hành chính, cần được thiết lập trên cơ sở yêu cầu đáp ứng các chức năng hành chính và dịch vụ công trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, mà không chỉ dựa vào ý chí chủ quan để điều chỉnh bộ máy theo hướng “tách ra, nhập vào”; 3) Đối với đội ngũ CBCC, phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu đảm nhận chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và đòi hỏi về tiêu chuẩn, trách nhiệm của từng chức danh, vị trí việc làm cụ thể. Không quản lý công chức theo kiểu “cùng tăng, cùng giảm” dàn đều trong toàn hệ thống; 4) Đối với các điều kiện vật chất, kỹ thuật, tài chính cần được quản lý theo hướng gắn với cơ chế tự chủ và tính đặc thù trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí được giao.
Tác động của các yếu tố khách quan đến xây dựng nền hành chính
Sự lãnh đạo của Đảng
Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật và các chương trình, kế hoạch hoạt động để quản lý xã hội. Bộ máy hành chính nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện thể chế một cách hiệu quả, đồng thời đảm bảo dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Từ giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã chỉ ra nguyên nhân của mọi nguyên nhân là công tác tổ chức và đề ra chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước. Theo đó, bộ máy nhà nước đã được sắp xếp lại một bước theo hướng gọn nhẹ, bớt đầu mối. Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, trong đó tập trung điều chỉnh cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương nhằm xây dựng một hệ thống hành chính nhà nước thông suốt.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khóa VII (tháng 01/1995) đã xác định ba trụ cột cải cách nền hành chính là: cải cách thể chế, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ CBCC. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phải cải cách hành chính đồng bộ, dựa trên cơ sở pháp luật theo hướng: phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp hành chính. Theo đó, đã cụ thể hóa việc phân cấp quản lý nhà nước giữa các cơ quan từ Trung ương tới địa phương; đổi mới chế độ công vụ, công chức; thành lập tòa án hành chính và thực hiện xã hội hóa một số hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ công. Đại hội lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta đề ra chủ trương điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách TTHC; xây dựng đội ngũ CBCC trong sạch, có năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006), xác định cải cách TTHC là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của người dân và doanh nghiệp; xây dựng chương trình hành động thiết thực, cụ thể về cải cách hành chính trong từng cơ quan hành chính. Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng đã xác định cải cách hành chính là một trong ba khâu đột phá để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu về xây dựng nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của hệ thống hành chính, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ người dân, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với đất nước trong thời gian tới.
Như vậy, các yếu tố chính trị không chỉ định hướng, mà còn chi phối trực tiếp, toàn diện và sâu sắc quá trình xây dựng nền hành chính nhà nước.
Cơ chế kinh tế thị trường
Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, phù hợp điều kiện thực tế ở Việt Nam và xu thế phát triển chung của các nước. Để quản lý vĩ mô nền kinh tế hiện nay, Nhà nước không chỉ xây dựng hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà phải quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các hình thức kinh doanh, dịch vụ, các chủ thể và quá trình kinh tế theo các quy luật của thị trường. Hệ thống cơ quan hành chính phải được tổ chức phù hợp với yêu cầu quản lý “nền kinh tế mở” và được quy hoạch, cơ cấu lại. Đội ngũ CBCC được trang bị kiến thức, kỹ năng về quản lý vĩ mô nền kinh tế, về hợp tác công - tư, xây dựng và thực hiện quy trình, thủ tục giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với tổ chức, công dân theo nguyên tắc cung ứng dịch vụ công…
Từ Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, khóa IV (tháng 9/1979) cho đến Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vẫn kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Với vai trò định hướng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh; sử dụng các công cụ chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Sự tham gia, ủng hộ của người dân
Khi đời sống kinh tế - xã hội thay đổi, trình độ dân trí được nâng cao, tất yếu sẽ gia tăng các nhu cầu dịch vụ công và sự tham gia thiết thực của người dân vào quá trình hành chính. Các chủ thể hành chính cần hiểu rõ những mong muốn, nguyện vọng của người dân; đảm bảo số lượng, chất lượng và kỳ hạn cung ứng dịch vụ công; tạo thuận lợi để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng. Theo đó, thể chế hành chính được xây dựng, bổ sung, sửa đổi nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế - xã hội; TTHC được cải cách theo yêu cầu nhanh gọn, hiệu quả, công khai, minh bạch, bảo đảm sự hài lòng của người dân; bộ máy hành chính được thiết kế phù hợp với yêu cầu quản lý vĩ mô và cung ứng dịch vụ công hiệu quả; đội ngũ CBCC được bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hành chính, xây dựng tác phong, lề lối làm việc và đạo đức công vụ để trở thành công bộc của dân… Mối quan hệ tác động qua lại giữa nền hành chính với người dân sẽ thúc đẩy các bên vừa tự hoàn thiện mình, vừa hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thực tiễn cho thấy, càng có sự tham gia, ủng hộ của người dân đối với cơ quan nhà nước thì hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước càng thuận lợi, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu.
Các yếu tố văn hóa, truyền thống
Sự kết tinh của bản sắc văn hóa truyền thống với những nhân tố tiến bộ của thời đại không chỉ tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội, mà còn ảnh hưởng đến mục tiêu cải cách hành chính, đến yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, kiến tạo bộ máy và văn hóa công vụ. Văn hóa công vụ là giá trị được cấu thành bởi các yếu tố hữu hình và vô hình mà hệ giá trị cốt lõi được sản sinh từ hoạt động công vụ của đội ngũ CBCC trong cơ quan nhà nước. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Hội nghị Trung ương lần thứ chín, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, nêu rõ: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(1).
Yếu tố khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế
Việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong quản lý nhà nước giúp thu hẹp khoảng cách không gian, rút ngắn thời gian, giảm chi phí hoạt động, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã khẳng định: “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”(2). Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin sẽ thúc đẩy việc xây dựng và phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số, góp phần đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Đáp ứng đủ năng lực vận hành nền kinh tế số, xã hội số theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp.
Các yếu tố chủ quan tác động đến xây dựng nền hành chính
Đội ngũ cán bộ, công chức
Trong các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước, đội ngũ CBCC đóng vai trò then chốt, quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động hành chính và chi phối các yếu tố khác. Khi tham gia quản lý nhà nước, công chức là lực lượng nòng cốt trong xây dựng và thực hiện thể chế, chính sách, chương trình, kế hoạch, TTHC và các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, cơ quan quyền lực cùng cấp và cơ quan hành chính trực tiếp ban hành; là lực lượng thường xuyên giải quyết công việc cho tổ chức, người dân… Nếu công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất tốt thì thực thi công vụ có hiệu quả, những nhu cầu cấp thiết của người dân và xã hội sẽ được giải quyết nhanh chóng hơn, những quyền, lợi ích chính đáng của người dân được bảo đảm và tạo cơ hội cho các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, hiện nay còn những bất cập như: chất lượng đội ngũ CBCC, kể cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở một số ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; cơ cấu CBCC chưa phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, một số nội dung thực hiện còn hình thức, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật. Một số CBCC đã lợi dụng sự chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật để trục lợi, tham ô, tham nhũng, chạy theo lợi ích nhóm hay lợi ích cá nhân, vi phạm nghiêm trọng đạo đức công vụ.
Yếu tố thể chế
Hệ thống thể chế hành chính là căn cứ pháp lý, là điều kiện tiên quyết để duy trì và bảo đảm sự vận hành của toàn hệ thống hành chính nhà nước. Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta xác định hoàn thiện hệ thống thể chế là một trong ba khâu đột phá chiến lược để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Thể chế tốt sẽ cụ thể hóa đường lối của Đảng thành khuôn khổ pháp lý tạo sự đồng bộ, thống nhất, liên thông hoạt động giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị; tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; quy định về TTHC để giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Mở rộng hình thức, nội dung, phạm vi công khai, minh bạch hóa TTHC và các thông tin quản lý nhà nước sẽ tác động đến tổ chức bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương thông qua việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn, giảm bớt tình trạng trùng lặp chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý giữa các cấp chính quyền, các cơ quan trong hệ thống. Phân định rõ giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự nghiệp; thể chế tác động đến đội ngũ CBCC cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu theo vị trí việc làm tương ứng với nghĩa vụ, trách nhiệm và chế độ, quyền lợi cùng các điều kiện đảm bảo phù hợp với thực thi công vụ.
Thể chế hành chính nhà nước không chỉ chịu tác động của từng yếu tố trong môi trường, mà hầu như tất cả các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường… cùng lúc tác động đa chiều, đa mức độ. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng thể chế hành chính ở Việt Nam, các chủ thể mới chỉ chú trọng vai trò định hướng của chính trị, còn các yếu tố khác ít được quan tâm. Thực tế này dẫn đến một hiện tượng là thể chế hành chính nhà nước thường có sự nhất quán cao về mục tiêu chính trị, nhưng ít phù hợp với tính chất, đặc điểm của ngành, lĩnh vực hay địa phương nên khó thực hiện và hay phải sửa đổi.
Yếu tố tổ chức bộ máy
Bộ máy hành chính được cấu trúc thành một chỉnh thể thống nhất để thực hiện chức năng hành chính. Tác động bao quát nhất của tổ chức bộ máy đến xây dựng nền hành chính là hệ thống hành chính chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận cấu thành vừa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa phối hợp tốt với các bộ phận khác để hoàn thành mục tiêu chung. Cụ thể hơn, cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tránh được sự chồng chéo, vướng mắc, dễ dàng phối hợp giải quyết công việc trong thực hiện nhiệm vụ. Bởi vậy, tùy theo yêu cầu của đời sống người dân và phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước, mà bộ máy hành chính được thiết kế cho phù hợp.
Vị trí, chức năng từng cơ quan phù hợp với tính chất tổ chức bộ máy cũng như yêu cầu về nội dung, phạm vi quản lý nhà nước đối với các quá trình kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát triển; nội dung các nhiệm vụ được xác định bảo đảm tính bao quát, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và đối với tất cả các khâu của quá trình quản lý như: quy hoạch, kế hoạch, tổ chức triển khai, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm…; cơ cấu tổ chức phù hợp với quy mô và trình độ quản lý, được phân công, phân cấp hợp lý, quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân đi liền với hệ thống các giải pháp hỗ trợ có hiệu quả; hệ thống định chế bao quát quy trình vận hành và sự phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Yếu tố tài chính công
Đối với các cơ quan hành chính, tài chính công trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật như công sở, công sản và các khoản chi thường xuyên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, việc hiện đại hóa cơ sở vật chất sẽ làm thay đổi mô hình hoạt động hành chính, thay đổi tác phong lề lối làm việc của công chức theo hướng khoa học, văn minh, hiện đại. Tăng cường đầu tư hạ tầng kỹ thuật, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho cơ quan hành chính không chỉ nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động công vụ, giảm chi phí hoạt động, tiết kiệm thời gian, là cơ sở để tinh giản biên chế và nâng cao năng lực điều hành của chủ thể quản lý… mà còn tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch hóa việc giải quyết TTHC và cung ứng dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp.
PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải, Học viện Hành chính Quốc gia
Nguồn: tcnn.vn
----------------------
Ghi chú:
(1) Bộ Chính trị, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).