GS. TS. Phạm Hồng Thái, nguyên Trưởng khoa Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
phát biểu tại Hội thảo khoa học chiến lược thu hút, trọng dụng nhân tài trong khu vực công. Ảnh : Thanh Tuấn.
Đây là nhận định của GS. TS. Phạm Hồng Thái, nguyên Trưởng khoa Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hội thảo khoa học chiến lực thu hút, trọng dụng nhân tài trong khu vực công được Bộ Nội vụ tổ chức vào tháng 7/2019.
Theo GS. TS. Phạm Hồng Thái, trong lĩnh vực khoa học, “nhân tài” là những người có khả năng nhận thức, phát hiện ra quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng của quá trình phát triển, từ đó phát hiện những vấn đề và giải quyết những vấn đề mà cuộc sống con người đặt ra. Họ có thể làm thay đổi nhận thức, sự phát triển của nhân loại, quốc gia, thời đại bằng những phát minh, sáng tạo của mình. Tài năng của họ thể hiện ở các công trình khoa học có thể làm thay đổi nhận thức của loài người, hay giải quyết những vấn đề lớn, được áp dụng trong đời sống hiện thực, vạch ra hướng phát triển của hệ thống khoa học, hay của một ngành khoa học nào đó, mang lại lợi ích cho xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học, có thể chia các nhà khoa học thành: có những nhà khoa học làm thay đổi nhận thức của nhân loại, làm thay đổi đời sống của toàn thế giới, quốc gia bằng những phát minh của mình, cả trong lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, trên mọi lĩnh vực của đời sống con người, số này không nhiều trên thế giới; số còn lại phần đông các nhà khoa học, chỉ dừng lại tiếp thu được những phát minh đó và vận dụng để nghiên cứu khoa học tạo ra các giá trị vật chất, tinh thần, hay đi truyền bá những tri thức khoa học qua hoạt động giáo dục, đào tạo, hay đi giáo huấn.
Bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào cũng cần đến nhân tài, nhưng mỗi thời đại có cách tuyển dụng, trọng dụng khác nhau. Đã từ xa xưa trong lịch sử và cho tới ngày nay, chúng ta đều khẳng định “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là lực lượng trụ cột của mỗi quốc gia, của mỗi cơ quan, tổ chức. Vì vậy, ngay từ thời phong kiến Việt Nam, đã áp dụng chính sách sử dụng nhân tài. Lê Thánh Tông là vị vua anh minh, đã đặc biệt quan tâm tới đào tạo và sử dụng các bậc hiền tài để phụng sự triệu đình, phò vua giúp nước với nhiều cách thức tuyển chọn quan lại như: nhiệm tử, tập ấm, tiến cử, bảo cử, khoa cử. Trong đó, tiến cử thì lấy người tài, đức hơn hẳn mà không cứ thân phận; bảo cử thì lấy người có danh vọng rạng rỡ, được xã hội suy tôn. Tiến cử là cách chọn nhân tài từ trong nhân dân, không căn cứ vào thân phận, bảo cử là hình thức chọn những quan lại có nhiều công trạng, có tài năng và có kinh nghiệm trong thực tiên quan trường mà bổ vào những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và địa phương. Bên cạnh chế độ tuyển chọn như trên, dưới triều vua Lê Thánh Tông, việc sắp xếp, bố trí quan lại được sắp xếp theo trình độ bằng cấp; sắp xếp theo chế độ tập sự; thực hiện chế độ hồi tỵ, chế độ luân chuyển; chế độ khảo khóa; chế độ giám sát, quản lý quan lại; lệ giản thái (tức là khi quan lại nếu không đáp ứng được nhu cầu của Nhà nước, hoặc bất tài đều bị bãi chức). Đi cùng với đó là chế độ lương, thưởng, bổng, lộc mà họ được hưởng từ triều đình. Đây là những kinh nghiệm trong lịch sử cần được kế thừa, phát huy, nâng tầm cao mới trong điều kiện ở nước ta hiện nay.
Về chính sách trọng dụng nhân tài, GS. TS. Phạm Hồng Thái cho rằng, chúng ta đã nói rất nhiều về chính sách trọng dụng nhân tài, nhưng thực tiễn dường như mới dừng lại ở đường hướng, chủ trương, đạo lý, còn về mặt pháp lý tới nay, ở nước ta không có Luật hay Pháp lệnh quy định một cách chuyên biệt về thu hút, trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực khoa học. Vì vậy, mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập có những chính sách riêng của mình để thu hút nhân tài (thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao), trọng dụng nhân tài.
Về thu hút và trọng dụng đối tượng này trong lĩnh vực khoa học được đề cập trong một số văn bản pháp luật khác nhau, như: Luật Khoa học và Công nghệ; Luật Giáo dục đại học và một số nghị định của Chính phủ cụ thể hóa thi hành, chẳng hạn như:
Nghị định số 140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, có hiệu lực từ ngày 20/01/2018. Theo Nghị định nêu trên, những đối tượng được “ưu tiên” khi tuyển dụng, đó là: sinh viên tốt nghiệp đại học loại xuất sắc, có kết quả học tập và rèn luyện xuất sắc các năm học của bậc đại học; đáp ứng một trong các điều kiện: Đạt giải ba cá nhân trở lên tại một trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh hoặc giải khuyến khích trở lên trong kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia hoặc Bằng khen trở lên trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế thuộc một trong các môn khoa học tự nhiên (toán, vật lý, hóa học, sinh học, tin học) và khoa học xã hội (ngữ văn, lịch sử, địa lý, ngoại ngữ) trong thời gian học ở cấp Trung học phổ thông. Đạt giải ba cá nhân trở lên tại cuộc thi khoa học - kỹ thuật cấp quốc gia hoặc quốc tế trong thời gian học ở cấp Trung học phổ thông hoặc bậc đại học. Đạt giải ba cá nhân trở lên tại cuộc thi Olympic một trong các môn toán, vật lý, hóa học, cơ học, tin học hoặc các chuyên ngành khác trong thời gian học ở bậc đại học được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận.
Đối với những người có trình độ thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, bác sĩ nội trú, dược sĩ chuyên khoa cấp I chuyên ngành y học, dược học dưới 30 tuổi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn đối với sinh viên xuất sắc nói trên được tuyển dụng theo chính sách thu hút nhân tài. Ngoài ra, những thạc sĩ, bác sĩ, dược sĩ này phải tốt nghiệp đại học loại khá trở lên và có chuyên ngành đào tạo sau đại học cung ngành đào tạo ở bậc đại học. Các tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, dược sĩ chuyên khoa cấp II chuyên ngành y học, dược học đáp ứng đủ những điều kiện dành cho cán bộ khoa học trẻ nói trên cũng được áp dụng chính sách nếu dưới 35 tuổi. Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 1, hệ số lương 2,34; Cán bộ khoa học trẻ có trình độ thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp I, bác sĩ nội trú, dược sĩ chuyên khoa cấp I được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 2, hệ số lương 2,67; Cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, dược sĩ chuyên khoa cấp II được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương, xếp bậc 3, hệ số lương 3,00; đồng thời, được hưởng phụ cấp tăng thêm bằng 100% mức lương theo hệ số lương hiện hưởng.
Chính sách này cũng không có nhiều hấp dẫn, nếu tính bình thường một người chỉ tốt nghiệp đại học loại trung bình, hay khá, giỏi được tuyển dụng qua thi tuyển, hết thời gian tập sự và sau 3 năm công tác, không bị kỷ luật và không có thành tích xuất sắc (trung bình) thì cũng có mức lương là: 2,67; và sau sáu - bẩy năm có mức lương 3,00. Vậy, một người bình thường (trẻ) phải bỏ tiền của mình để học thạc sĩ với thời gian từ 1,5 - 2 năm, hoặc hơn có bằng thạc sĩ cũng chỉ có mức lương 2,67; sau 3 năm hoặc hơn mới có thể đạt được bằng tiến sĩ, thì mức lương là 3,00.
Quy định này cũng không thực sự hấp dẫn, nếu có hấp dẫn thì cũng chỉ ở trong một chừng mực nhất định, hay trong giai đoạn “đang thất nghiệp” của những người tốt nghiệp đại học, mà họ muốn vào cơ quan, tổ chức nhà nước làm việc. Có lẽ chỉ ưu tiên là được xét tuyển và “được hưởng phụ cấp tăng thêm bằng 100% mức lương theo hệ số lương hiện hưởng” đối với cán bộ khoa học trẻ có trình độ tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp II, dược sĩ chuyên khoa cấp II được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và tương đương. Nhưng lại cũng không quy định “được hưởng từ khi nào” và “đến khi nào”.
Thực tiễn tiêu chuẩn tuyển dụng đặt ra là khá cao, không nhiều những thạc sĩ mà trong thời gian học phổ thông: đạt giải ba cá nhân trở lên tại một trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh hoặc giải khuyến khích trở lên trong kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia hoặc Bằng khen trở lên trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế, nhưng về chế độ tiền lương không có mấy hấp dẫn.
Điều quan trọng là, sau khi được tuyển dụng các cơ quan, tổ chức tạo điều kiện để họ phát huy năng lực như thế nào, có chính sách gì tiếp theo đối với họ. Trong không ít các cơ quan, tổ hức vẫn có tình trạng “thứ nhất trực hệ, thứ nhì tiền tệ, thứ ba quan hệ, thứ tư đồ đệ, thứ năm trí tuệ” như trong dư luận xã hội thì khó có thể nói tới trọng dụng nhân tài, đặc biệt trong các cơ quan công quyền. Còn trong đơn vị sự nghiệp năng lực chuyên môn của mọi người rất dễ bộc lộ bởi lao động sáng tạo của họ.
Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ để cụ thể hóa một số điều của Luật Khoa học và Công nghệ, cũng chỉ đề cập đến một số vấn đề như: nguyên tắc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được: Tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi cho cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ phát huy tối đa năng lực và được hưởng lợi ích xứng đáng với kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; tạo điều kiện cho nhân tai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan trọng để phát huy tài năng và được hưởng lợi ích xứng đáng với nhiệm vụ đảm nhận; Cá nhân có thành tích trong hoạt động khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm được xét tuyển dụng đặc cách và bổ nhiệm vào chức danh khoa học, chức danh công nghệ hạng IV, hạng III không phải qua tập sự, được xếp vào bậc lương phù hợp với trình độ đào tạo theo quy định; được công nhận, bổ nhiệm chức danh khoa học, chức danh công nghệ… theo quy định của pháp luật về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; được đặc cách bổ nhiệm vào chức danh khoa học, chức danh công nghệ cao hơn không qua thi thăng hạng, không phụ thuộc năm công tác; được nâng lương vượt bậc đối với cá nhân có thành tích trong hoạt động khoa học và công nghệ; được tạo điều kiện làm việc; được xem xét kéo dài thời gian công tác khi đủ tuổi nghỉ hưu.
Đơn vị sự nghiệp rất đa dạng: các viện nghiên cứu, bệnh viện, trường học, thư viện… Ở đây, trong khuôn khổ chỉ bàn về thu hút nguồn lao động chất lượng cao của đơn vị sự nghiệp - trường đại học công lập.
Như, Đại học Quốc gia, Đại học vùng, trường đại học công lập là những cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học, tùy theo sứ mệnh của từng trường mà có tuyên ngôn khác nhau đối với xã hội, cam kết với người học và xã hội. Nhưng dù như thế nào đi nữa thì tất cả các trương đại học đều phải thực hiện hai nhiệm vụ: đào tạo và nghiên cứu khoa học, tùy theo từng trường mà mức độ nghiên cứu khoa học khác nhau. Do đó, tất cả các trường đều ở những mức độ khác nhau mà áp dụng các chính sách đã nêu trong các nghị định nêu trên.
Trước yêu cầu đòi hỏi nâng cao chất lượng đào tạo ở tất cả các trương đại học một tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo: số lượng giáo viên/sinh viên (số lượng); số nhà khoa học - nguồn nhân lực chất lượng cao/số lượng giáo viên/sinh viên/học viên; số lượng các bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế chất lượng cao, số sách chuyên khảo, tham khảo xuất bản ở trong, ngoài nước (chất lượng) và nhiều tiêu chí khác.
Vì vậy, tất cả các trường đại học công lập đều tìm mọi cách để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao theo từng cách của mình, nhưng tất cả đều phải tính đến những vấn đề căn bản sau đây:
Sắp xếp lại tổ chức, sắp xếp lại một số đơn vị và phát triển tổ chức mới; cập nhật thông tin và bồi dưỡng cho cán bộ…
Tăng tỷ lệ cán bộ khoa học có trình độ cao đồng thời giảm tỷ lệ cán bộ làm vị trí hành chính, quản lý vì quá lớn, cồng kềnh.
Thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở các cơ quan nhà nước đã nghỉ hưu về làm công tác giảng dạy, tùy theo từng trường mà có chính sách khác nhau để thu hút nguồn nhân lực này.
Thu hút chuyên gia nước ngoài đến làm việc, phát triển số lượng và chất lượng cán bộ, quy tụ đội ngũ để nâng cao hiệu qả của đơn vị đào tạo; cải cách hành chính và tinh gọn bộ máy.
Mỗi trường có chính sách riêng để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao
Theo quan niệm của Đại học Quốc gia Hà Nội, những đối tượng được gọi là có trình độ cao bao gồm: có học vị tiến sĩ trở lên (sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ thông dụng, ưu tiên tiếng Anh; có thành tích nghiên cứu khoa học; giảng dạy được tập thể đánh giá cao, có nhiều công trình đăng tạp chí quốc tế có uy tín, sách chuyên khảo, có phát minh, sáng chế hoặc các giải thưởng khoa học).
Những đối tượng được ưu đãi: cán bộ khoa học là biên chế cơ hữu, đang công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội; những người được Đại học Quốc gia Hà Nội ký hợp đồng giảng dạy đã nghỉ hưu; những cán bộ khoa học được biên chế ở các trường, viện nghiên cứu ngoài Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đơn cử, thực tiễn tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội chưa phải là một cơ sở đào tạo (trường thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội là cơ sở đào tạo) nên việc tuyển dụng giảng viên được chia thành 02 loại, một loại do Đại học Quốc gia Hà Nội quyết định theo chỉ tiêu của Đại học Quốc gia Hà Nội (do Đại học Quốc gia Hà Nội ký hợp đồng), thường là những người có bằng tiến sĩ ở nước ngoài, nhưng số lượng hạn chế, mọi chế độ tiền lương vẫn bình thường theo quy định của nhà nước, nhưng được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu khoa học theo sản phẩm đầu ra (phát minh, sáng chế, bài báo khoa học đăng tạp chí quốc tế). Giảng viên giảng dạy bằng tiếng nước ngoài được tính hệ số cao hơn giảng dạy bằng tiếng Việt, được ưu tiên kinh phí để nghiên cứu khoa học…
Một loại do Khoa ký hợp đồng, có cả thạc sĩ và tiến sĩ, thường là những học viên xuất sắc được Khoa ký hợp đồng và đào tạo làm công tác giảng dạy, nhưng sau ba năm phải có bằng tiến sĩ được đào tạo ở trong nước, hoặc nước ngoài.
Đối với cán bộ khoa học là giáo sư, nhà giáo nhân dân được bố trí chỗ làm việc riêng biệt; được ưu tiên trong việc tham gia biên soạn giáo trình, bài giảng, tham gia Hội đồng thẩm định… Hỗ trợ kinh phí để xuất bản, công bố các công trình khoa học, sách chuyên khảo, phát minh, sáng chế; ưu tiên trong tuyển chọn, xét duyệt, cấp kinh phí để thực hiện đề tài khoa học. Những người được bầu làm: trưởng nhóm nghiên cứu mạnh được giảm giờ giảng dạy 20%, được ưu tiên trong tuyển chọn đề tài nghiên cứu khoa học; những người làm quản lý đều được giảm giờ giảng.
Để huy động được nguồn nhân lực chất lượng cao, điều quan trọng là phải tạo được môi trường “tự do học thuật”; môi trường thân thiện giữa các thế hệ giảng viên; tạo được quan hệ với các nhà khoa học ở trong, ngoài cơ sở đào tạo; tạo nên sự cạnh tranh trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy, phải đánh giá chất lượng giảng dạy của giảng viên, chất lượng đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên phát triển trên con đường chức nghiệp; ưu tiên giáo viên trẻ thực hiện đề tài khoa học cấp cơ sở, còn những người khác (giáo sư, phó giáo sư không thực hiện những đề tài loại này, mà phải thực hiện đề tài cấp Bộ trở lên).
Chính sách thu hút, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
Trên cơ sở phân tích ở trên, GS. TS. Phạm Hồng Thái nhấn mạnh, vấn đề đặt ra hiện nay không chỉ đơn giản là những ưu tiên để được tuyển dụng làm công chức, viên chức, mà phải có cách nhìn khách quan về chế độ tiền lương đối với các viên chức trong các cơ sở giáo dục công lập nói chung, trường đại học nói riêng. Chúng ta không thể “áp” thang bảng lương, ngạch, bậc của công chức cho viên chức. Chúng ta đang đứng trước một tình huống đầy nghịch lý là: một mặt muốn huy động nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, hay đại học nói riêng, nhưng do tài chính hạn hẹp nên khó thực hiện; một số trường đại học công lập (ít quan tâm đến nghiên cứu khoa học), người ta không muốn tiếp nhận những người có trình độ cao giáo sư, phó giáo sư để làm việc, vì phải trả lương cao, nên có lẽ chất lượng cung cấp dịch vụ công còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Trong khi các đơn vị sự nghiệp của tư nhân (bệnh viện, trường học tư…) áp dụng chế độ hợp đồng, trả lương theo sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động; những người được cung cấp dịch vụ công cũng thỏa thuận với người cung cấp dịch vụ công. Phải chăng các đơn vị sự nghiệp công lập, trừ những đơn vị đặc thù, còn lại các trường đại học cũng cần phải áp dụng mô hình các đơn vị sự nghiệp tư nhân vào đơn vị sự nghiệp công lập.
Muốn như vậy, không có con đường nào khác ngoài con đường “trao cho các trường đại học quyền tự chủ”, tự chủ về mọi mặt tài chính, tổ chức, chế độ tiền lương, thưởng… (do chính xác trường đó tự quy định); họ phải tự vươn lên trong cơ chế thị trường, cạnh tranh với các đơn vị sự nghiệp công lập, tư nhân khác.
Khi tự chủ họ phải cam kết với xã hội về chất lượng cung cấp dịch vụ công, thỏa thuận với người học về học phí… Nhà nước đóng vai trò là người kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các cam kết đó.
Anh Cao