BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Lịch sử 60 năm xây dựng và trưởng thành của Học viện Hành chính Quốc gia và định hướng phát triển trong giai đoạn tới

06/06/2019 14:46

Trường Hành chính, nay là Học viện Hành chính Quốc gia trực thuộc Bộ Nội vụ được thành lập theo Nghị định số 214-NV ngày 29-5-1959 của Thủ tướng Chính phủ, đến nay đã tròn 60 năm. Từ khi được thành lập, vị thế của Học viện đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng và phát triển. 60 năm lịch sử Học viện là quá trình xây dựng, kế thừa và phát triển về chức năng nhiệm vụ. 

1. Quá trình phát triển về chức năng, nhiệm vụ

Nhiệm vụ chính trị đầu tiên của Học viện theo Nghị định số 214-NV ngày 29/5/1959 thành lập Trường Hành chính do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phan Kế Toại ký là huấn luyện cán bộ hành chính.

Ngày 30/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 81-CP chuyển Trường Hành chính Trung ương từ trực thuộc Bộ Nội vụ sang trực thuộc Ban Tổ chức của Chính phủ. Điều 2 Quyết định này ghi rõ Trường Hành chính Trung ương có nhiệm vụ: “Huấn luyện và bồi dưỡng các ủy viên Ủy ban nhân dân huyện, tỉnh và tương đương, cán bộ làm công tác tổ chức, văn phòng ở các Ủy ban nhân dân huyện, tỉnh và tương đương, cán bộ làm công tác giảng dạy ở các trường hành chính và cán bộ phụ trách các Ty, Sở của tỉnh và thành phố”.

Ngày 12/5/1980, Hội đồng Chính phủ  ban hành Quyết định số 142-CP sát nhập Trường Hành chính TW và Trường Kinh tế TW thành Trường Hành chính và Kinh tế Trung ương. Theo đó, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường gồm cả nội dung quản lý kinh tế và quản lý hành chính nhà nước.

Ngày 26/9/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 91-HĐBT về nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trường Hành chính Trung ương. Theo Quyết định này, Trường Hành chính Trung ương “là cơ quan giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý nhà nước có trình độ cao cấp, trung cấp; tổ chức việc nghiên cứu khoa học quản lý nhà nước và chỉ đạo việc bồi dưỡng, đào tạo các loại cán bộ quản lý nhà nước thuộc các ngành, các cấp. Bồi dưỡng, đào tạo giáo viên cho các trường hành chính địa phương và hướng dẫn các trường này về chương trình, tài liệu” ...

Ngày 23/2/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 34/CT về việc tăng cường hệ thống Trường hành chính của Trung ương và các tỉnh, thành phố, theo đó, Trường Hành chính Trung ương cần phải được củng cố và tăng cường thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học về quản lý nhà nước, tương xứng với yêu cầu trong giai đoạn mới. Trường Hành chính Trung ương là một đơn vị trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng và được hưởng các quy chế như một Bộ. Tham gia vào các đề án của Hội đồng Bộ trưởng về vấn đề cải cách bộ máy nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Để trường có điều kiện tham gia nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước và nâng cao chất lượng giảng dạy, trường được nhận những tài liệu cần thiết, được dự những cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng bàn những vấn đề có liên quan đến cơ chế quản lý nhà nước. Học viên Trường Hành chính Trung ương được hưởng chế độ sinh hoạt như học viên của Học viện Nguyễn Ái Quốc.

Ngày 06/7/1992, Trường Hành chính quốc gia được đổi tên thành Học viện Hành chính Quốc gia theo Nghị định số 253-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Theo Nghị định này, Học viện chịu sự quản lý trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng, là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính nhà nước và nghiên cứu khoa học hành chính nhà nước.

Năm 2002, thực hiện Chương trình cải cách hành chính, giảm bớt đầu mối cơ quan thuộc Chính phủ, Học viện Hành chính Quốc gia từ cơ quan thuộc Chính phủ được chuyển giao nguyên trạng vào Bộ Nội vụ theo Quyết định số 123/2002/QĐ-TTg ngày 19/9/2002 của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 13/11/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 234/2003/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia. Theo Quyết định này, Học viện là trung tâm quốc gia, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật; thực hiện các chức năng: đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, các chức danh công chức hành chính các cấp, cán bộ, công chức cơ sở, công chức dự bị, đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên các chuyên ngành hành chính và quản lý nhà nước; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho Chính phủ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước.

Theo Quyết định số 60-QĐ/TW ngày 07/5/2007 của BCH Trung ương, Học viện Hành chính Quốc gia hợp nhất với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Học viện Hành chính Quốc gia được đổi tên Học viện Hành chính.

Theo Quyết định số 100-QĐ/TW ngày 22/10/2007 của BCH Trung ương và Nghị định số 129/2008/NĐ-CP ngày 17/12/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Chính trị -Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Hành chính là một học viện chuyên ngành thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

Ngày 23/01/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 05/2018/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Hành chính Quốc gia, theo đó khẳng định Học viện Hành chính Quốc gia có vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, là Trung tâm quốc gia, đơn vị sự nghiêp công lập hạng đặc biệt trực thuộc Bộ Nội vụ, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kiến thức, kỹ năng về hành chính, về lãnh đạo, quản lý cho cán bộ, công chức, viên chức; đào tạo nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học hành chính và tư vấn cho Bộ Nội vụ trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước. 

Hiện nay, Học viện Hành chính Quốc gia có 17 đơn vị gồm 06 đơn vị quản lý (Ban Tổ chức cán bộ, Văn phòng, Ban Kế hoạch - Tài chính, Ban Hợp tác quốc tế; Ban Quản lý bồi dưỡng, Ban Quản lý đào tạo Sau đại học); 05 đơn vị giảng dạy (Khoa Nhà nước - Pháp luật và Lý luận cơ sở, Khoa Khoa học hành chính và Tổ chức nhân sự, Khoa Văn bản và Công nghệ hành chính, Khoa Quản lý nhà nước về Kinh tế và Tài chính công, Khoa Quản lý nhà nước về Xã hội); 03 đơn vị sự nghiệp (Viện Nghiên cứu Khoa học hành chính, Tạp chí Quản lý nhà nước, Trung tâm Ngoại ngữ - Tin học và Thông tin - Thư viện) và 3 Phân viện (Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại thành phố Huế, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên).

Học viện Hành chính Quốc gia thực hiện các chương trình bồi dưỡng theo ngạch, chức danh và vị trí việc làm, đào tạo sau đại học, bồi dưỡng giảng viên về hành chính và quản lý nhà nước. Hàng năm, Học viện đào tạo, bồi dưỡng hàng chục nghìn đối tượng sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp vụ, cấp sở, học viên nước ngoài (Lào, Băng la đét...). 

Học viện Hành chính Quốc gia là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng duy nhất thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương; bồi dưỡng kiến thức, năng lực và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng, cấp vụ, cấp sở, cấp huyện và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của hệ thống chính trị và doanh nghiệp; đào tạo, bồi dưỡng về hành chính, quản lý nhà nước và phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên phạm vi cả nước; là cơ sở có uy tín và kinh nghiệm 25 năm trong đào tạo trình độ thạc sĩ với 4 chuyên ngành, đào tạo tiến sĩ chuyên ngành quản lý công.

Về nghiên cứu khoa học, Học viện có nhiều công trình nghiên cứu cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước và Bộ Nội vụ trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển hành chính quốc gia, trong cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại; mở rộng hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi học thuật.

Đối với quốc tế và khu vực, Học viện Hành chính Quốc gia hiện đang là thành viên cấp Nhà nước của các tổ chức quốc tế về hành chính như: Tổ chức Hành chính miền Đông Thế giới (EROPA), Hiệp hội Quốc tế các Học viện và Học viện Hành chính (IASIA), Hiệp hội Hành chính châu Á (APA)…; có quan hệ hợp tác với khoảng 50 cơ sở đào tạo và nghiên cứu hành chính có uy tín, đã ký thoả thuận hợp tác với gần 20 cơ sở nghiên cứu và đào tạo hành chính các nước; tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trung cấp và cao cấp với các chức danh vụ trưởng và thứ trưởng cho nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

2. Một số định hướng phát triển Học viện trong thời gian tới

Nghiên cứu định hướng phát triển của Học viện Hành chính Quốc gia cần dựa trên lịch sử xây dựng và phát triển về chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy; trên cơ sở bối cảnh và thực trạng hiện tại và quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển nền công vụ nói chung và công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói riêng.

Cải cách hệ thống công vụ ở Việt Nam đặt ra yêu cầu ngày càng cao về trình độ, năng lực của công chức, vì vậy, đào tạo bồi dưỡng phải hướng tới nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp cho công chức, để đội ngũ này có khả năng thực hiện có chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ, công vụ được giao, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đồng thời  xu hướng cạnh tranh ngày càng cao trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức bồi dưỡng công chức đòi hỏi hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, trong đó Học viện Hành chính Quốc gia phải đi đầu trong đổi mới nội dung,  phương pháp giảng dạy cũng như phương thức quản lý đào tạo, bồi dưỡng để đem lại chất lượng, hiệu quả cao. 

Xây dựng Học viện Hành chính Quốc gia là Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tầm quốc gia và ngang tầm khu vực đã được Đảng và Nhà nước khẳng định trong Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025. 

Bối cảnh trên đòi hỏi Học viện cần xác định rõ định hướng phát triển để đáp ứng được yêu cầu mới trong quản lý nhà nước và xây dựng nền công vụ, trong đó cần quan tâm lưu ý đến các nội dung sau:

a) Về đào tạo, bồi dưỡng 

Đổi mới và hiện đại hóa về nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo hướng đào tạo bồi dưỡng và phát triển dựa trên năng lực và cá nhân hóa.
Đào tạo bồi dưỡng theo năng lực nhấn mạnh việc sử dụng năng lực, kỹ năng nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của chức danh, vị trí việc làm và công việc cụ thể. Kết quả đào tạo bồi dưỡng theo năng lực được đánh giá bằng kết quả thực thi của người học tại nơi làm việc, thông qua kỹ năng và mức độ ứng dụng trên thực tế, thông qua việc so sánh giữa tiêu chuẩn năng lực cần đáp ứng với năng lực hiện tại cũng như với nhu cầu đào tạo, chiều hướng phát triển. Như vậy, đào tạo bồi dưỡng bên cạnh mục tiêu chuẩn hóa về văn bằng chứng chỉ theo yêu cầu của chức danh, chức vụ và vị trí việc làm và còn là một phần của kế hoạch phát triển cá nhân do từng công chức và cơ quan quản lý công chức thống nhất xác định. 

Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần triển khai như sau:

- Tiếp tục hoàn thiện các chương trình bồi dưỡng theo chức danh, chức vụ lãnh đạo quản lý, bám sát các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của tiêu chuẩn ngạch, chức danh, chú trọng đến bồi dưỡng nâng cao đạo đức, văn hóa công vụ và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. 

- Tập trung phát triển các chương trình, chuyên đề bồi dưỡng ngắn hạn theo yêu cầu, đặt hàng của các cơ quan, tổ chức. Đây cũng là cơ sở để cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chế độ bồi dưỡng bắt buộc 40 giờ/năm. Việc thiết kế xây dựng chương trình và phương pháp bồi dưỡng cần có tính thực tiễn cao, với đúng nghĩa là “huấn luyện” để cán bộ công chức, viên chức có kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu, thành thạo.

Học viện cần liên kết chặt chẽ với các cơ quan nhà nước để tư vấn, phối hợp xác định nhu cầu, nội dung bồi dưỡng nâng cao năng lực về hành chính và quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức, viên chức, từ đó thiết kế  xây dựng các chương trình, chuyên đề theo nhu cầu công việc và vị trí việc làm. 

- Xây dựng và hoàn thiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về hành chính, quản lý nhà nước và phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trên phạm vi cả nước. Chương trình này cần được quy định là bắt buộc đối với giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để được tham gia giảng dạy về hành chính, quản lý nhà nước.

- Phát triển các chương trình đào tạo sau đại học vừa mang tính nghiên cứu hàn lâm, vừa đạt được tính ứng dụng cao. Tiếp tục thực hiện các chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ hiện có và mở mới các chương trình liên ngành; hướng tới đào tạo trình độ tiến sĩ ở tất cả các chương trình có đào tạo thạc sĩ.

- Triển khai cách hình thức thức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến để người học được tiếp cận các kênh, phương thức học tập hiện đại và khả năng tự đào tạo, bồi dưỡng. 

b) Về nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế

Học viện cần đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao vị thế trong nước và quốc tế của Học viện. Xây dựng Học viện là môi trường học thuật, là cơ quan phản biện, sáng tạo, cần thực hiện tốt phương châm gắn nghiên cứu lý luận với thực tiễn, có những nghiên cứu khoa học khách quan, những phản biện sáng tạo được đúc rút từ thực tiễn để đóng góp vào phát triển khoa học hành chính ở Việt Nam. 

Để đạt được mục tiêu trên, các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần triển khai như sau:

- Thực hiện có chất lượng các nghiên cứu khoa học về hành chính và quản lý nhà nước ở tầm cỡ quốc gia và quốc tế; tập trung phát triển ngành khoa học thuộc thế mạnh, có truyền thống, có tính đặc thù của Học viện là khoa học hành chính, khoa học quản lý công, chính sách công và các khoa học liên ngành. 

- Từng giai đoạn cụ thể cần xác định các định hướng nghiên cứu trọng tâm nhằm phục vụ xây dựng chương trình, tài liệu, nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tư vấn, phản biện đối với các chính sách, văn bản pháp luật của Đảng, Chính phủ, Bộ Nội vụ.

- Hợp tác chặt chẽ với các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương trong việc thực hiện các nghiên cứu theo đặt hàng hoặc đấu thầu nhằm cung cấp luận cứ khoa học và đề xuất kiến giải thực tiễn phục vụ điều hành hành chính tại các bộ, ngành, địa phương. 

- Triển khai công tác nghiên cứu khoa học theo hướng tăng cường các bài báo quốc tế có uy tín, có các kết quả nghiên cứu đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN và thế giới. Phát triển Tạp chí Quản lý nhà nước của Học viện đạt chuẩn ISI hoặc SCOPUS. 

- Xây dựng Học viện thành trung tâm tư vấn trong đào tạo, bồi dưỡng; trung tâm thông tin khoa học của quốc gia và khu vực trong lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước.

- Tiếp tục duy trì và mở rộng các khóa bồi dưỡng công chức cho các quốc gia trong khu vực, như xây dựng đối tác với các trường tiên tiến trên thế giới, mời các chuyên gia, giảng viên, nhà khoa học nước ngoài tham gia đào tạo bồi dưỡng và liên kết đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, đưa Học viện sớm thích ứng với sự phát triển khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế.

c) Về xây dựng đội ngũ và tổ chức bộ máy

- Xây dựng đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên có trình độ cao để thực hiện có kết quả đổi mới đào tạo bồi dưỡng, có khả năng tham gia giảng dạy và nghiên cứu trong môi trường quốc tế. 

- Đảm bảo các điều kiện cho phát triển đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý; thực hiện chế độ đãi ngộ, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc tại Học viện; đảm bảo thu hút, trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao. 

- Thực hiện chính sách cử giảng viên đi thực tế tại các bộ, ngành, địa phương để tích lũy kinh nghiệm thực tế và đi học tập, thực tập sinh, tham gia hộ thảo khoa học ở nước ngoài. 

- Về tổ chức bộ máy, cần phát triển các khoa chuyên môn trở thành các Viện để phát triển theo hướng nghiên cứu và giảng dạy ngày càng chuyên sâu trong các lĩnh vực hành chính và quản lý nhà nước. 

d) Về xây dựng cơ sở vật chất

- Xây dựng hệ thống cung cấp và đảm bảo thông tin hiện đại, hiệu quả; ứng dụng các phần mềm quản lý công việc, quản lý đào tạo, bồi dưỡng. 

-  Xây dựng thư viện điện tử, giảng đường, phương tiện học tập, ký túc xá đạt chuẩn quốc tế.  

- Xây dựng lộ trình thực hiện cơ chế tự chủ, phát huy tính chủ động của các đơn vị trực thuộc. Nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ đào tạo bồi dưỡng và khoa học công nghệ tăng trưởng qua các năm. 

e) Về quản trị nội bộ và kiểm định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

- Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện các quy định, quy trình quản lý nội bộ theo nguyên tắc quản lý chất lượng. 

- Triển khai đánh giá chất lượng dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng thông qua ý kiến đánh giá từ học viên, cơ quan cử đi học; thông qua kiểm định nội bộ và hướng tới kiểm định độc lập để thẩm định mức độ đạt chuẩn quốc gia và quốc tế.  

- Xây dựng Học viện trở thành trung tâm quốc gia về kiểm định chất lượng cán bộ, công chức, viên chức và kiểm định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

TS. Nguyễn Đăng Quế  - Phó Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia

PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Vân - Trưởng khoa Văn bản và Công nghệ hành chính, Học viện Hành chính Quốc gia

----------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức;

2. Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2025. 

3. Quyết định số 2823/QĐ-BNV ngày 01/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Nội vụ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.


Theo: tcnn.vn

Tìm kiếm