Ngày 28 tháng 8 năm 1945 đã đi vào lịch sử, đánh dấu một mốc son chói lọi khi theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ lâm thời có 15 vị Bộ trưởng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với 13 Bộ chuyên trách. Trong đó có Bộ Nội vụ và Bộ Lao động là 2 bộ đầu tiên được thành lập sau thành công của Cách mạng tháng Tám. Ngay từ khi thành lập, Bộ Nội vụ và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (với nhiều tên gọi qua các thời kỳ như Bộ Lao động, Bộ Cứu tế xã hội, Bộ Xã hội, Bộ Thương binh, cựu binh) đã thể hiện rõ tinh thần tiên phong, đặt nền móng cho nền hành chính của một quốc gia độc lập và thực hiện các chính sách xã hội, góp phần xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Buổi họp chính quyền dân chủ nhân dân năm 1945 (Ảnh: Tư liệu, Phông Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản).
Giai đoạn 1946 - 1954: Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
Đây là giai đoạn đầy gian khó nhưng cũng tràn đầy hào khí của dân tộc. Sau ngày tuyên bố độc lập, Bộ Nội vụ cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện những nhiệm vụ cấp bách: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, và diệt giặc ngoại xâm.
Bộ đã tham mưu cho Đảng, Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương quan trọng về xây dựng bộ máy nhà nước kiểu mới, gồm các sắc lệnh, nghị định tập trung vào các vấn đề cốt lõi của việc xây dựng bộ máy chính quyền nhân dân, chính quyền cách mạng non trẻ như Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp đầu tiên, tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, xây dựng đội ngũ công chức cách mạng... Các sắc lệnh, nghị định này là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (hàng đầu, đứng giữa) và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp (đứng hàng đầu, ngoài cùng bên trái) trong lần ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9/1945. (Ảnh: Tư liệu)
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp là người duy nhất trong Chính phủ lâm thời được phép thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời trong một số công việc liên quan đến ban hành văn bản nhà nước. Theo đó, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã thay mặt Chủ tịch nước ký sắc lệnh ấn định Quốc kỳ Việt Nam; sắc lệnh mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội; sắc lệnh bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp… Bên cạnh công tác tham mưu, Bộ Nội vụ đã trực tiếp tổ chức thực hiện nhiều công việc cụ thể về tổ chức bộ máy Chính phủ, chế độ công vụ, công chức, xây dựng chính quyền địa phương, bảo đảm trật tự, an ninh xã hội, bảo vệ Đảng, Chính phủ trước sự chống phá của kẻ thù.
Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành thể lệ Tổng tuyển cử (Ảnh: Tư liệu)
Sau cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng là một chí sĩ yêu nước, là nhà báo cách mạng lỗi lạc của Việt Nam trong giai đoạn thực dân Pháp đô hộ, là người có ảnh hưởng to lớn trong giới trí thức miền Trung (được tôn sùng là “mãnh hổ miền Trung”), được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay đồng chí Võ Nguyên Giáp được giao chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ đây, Ngành Tổ chức nhà nước cũng từng bước được củng cố, kiện toàn.
Ngày 19/1/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Nghị định số 14/NV quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ. Lãnh đạo Bộ Nội vụ thời kỳ này bao gồm: Bộ trưởng, Đổng lý Văn phòng, Chánh Văn phòng. Cơ quan Bộ có hai bộ phận là Văn phòng và bốn nha: (1) Nha Công chức và Kế toán; (2) Nha Pháp chế và Hành chính; (3) Nha Thanh tra; (4) Nha Công an. Ngày 3/5/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 58/SL quy định tổ chức và chức năng của cơ quan thuộc Bộ Nội vụ. Đây là văn bản pháp lý quan trọng, chính thức quy định cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ. Bộ có thêm hai nha mới là Nha Thông tin tuyên truyền và Nha Dân tộc thiểu số. Đến năm 1953, Nha Công an tách ra để thành lập Thứ bộ Công an, sau đổi thành Bộ Công an.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Bộ Nội vụ đã chuẩn bị nhiều văn bản quy phạm pháp luật để Chính phủ, Chủ tịch Chính phủ ban hành nhằm củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước, thiết lập chế độ công chức mới phù hợp với điều kiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đặc biệt, việc ban hành Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 quy định chế độ công chức mới đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng đội ngũ công chức của Nhà nước cách mạng.
Cán bộ, nhân viên Nội vụ làm việc tại chiến khu Việt Bắc (Ảnh: Tư liệu)
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bộ Nội vụ đã cùng với các cơ quan khác di chuyển lên chiến khu Việt Bắc. Tại đây, Bộ tiếp tục sứ mệnh của mình, duy trì hoạt động của bộ máy chính quyền trong bối cảnh chiến tranh ác liệt. Công tác tổ chức và quản lý cán bộ, chính quyền địa phương được đặc biệt quan tâm, đảm bảo bộ máy luôn vững mạnh để phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ. Bộ cũng đã tham mưu ban hành các chính sách quan trọng, động viên sức mạnh của toàn dân để bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Giai đoạn 1954 - 1975: Kiến tạo xã hội mới và thống nhất đất nước
Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước bị chia cắt làm hai miền Nam - Bắc. Bộ Nội vụ đã tập trung vào việc tham mưu củng cố chính quyền nhân dân, xây dựng bộ máy nhà nước phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Bộ đội ta từ các cửa ô tiến vào công tác tiếp quản Thủ đô ngày 10/10/1954 (Ảnh: Tư liệu)
Theo Nghị định số 130/CP của Chính phủ ban hành ngày 29/9/1961, Bộ Nội vụ là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm quản lý công tác tổ chức và dân chính theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt công tác xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước và công tác dân chính. Trong thời gian này, Bộ đã nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ mới; trình Hội đồng Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách, chế độ, thể lệ và phê chuẩn thành lập các tổ chức mới thuộc thẩm quyền; về xây dựng và củng cố chính quyền địa phương các cấp; về quản lý địa giới các đơn vị hành chính; về chỉ đạo thống kê lực lượng cán bộ, công nhân viên hành chính; về tổ chức bầu cử; quản lý Trường Hành chính Trung ương (9/1965 – 5/1980); quản lý biên chế các cơ quan thuộc khu vực nghiên cứu sản xuất, về các chế độ, chính sách đối với thương binh, liệt sĩ; chỉ đạo thực hiện chính sách đối với Việt kiều về nước; quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy.
Về tổ chức bộ máy của Bộ Nội vụ và của ngành đã có nhiều thay đổi theo hướng mở rộng thêm chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn. Đặc biệt, theo quy định tại Thông tư số 15/NV ngày 13/6/1963 của Bộ Nội vụ, các công tác do Bộ Nội vụ chỉ đạo ở khu, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tập trung vào một đầu mối tổ chức thống nhất lấy tên là Ban Tổ chức dân chính. Việc quy định tổ chức bộ máy làm công tác tổ chức nhà nước ở các tỉnh, thành phố là một mốc quan trọng, đánh dấu sự hoàn chỉnh của hệ thống tổ chức trong lĩnh vực tổ chức nhà nước. Theo đó, hệ thống tổ chức nhà nước gồm: Bộ Nội vụ, các vụ tổ chức cán bộ ở các bộ, ngành và Ban Tổ chức dân chính ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Từ năm 1970, hệ thống tổ chức của ngành Tổ chức nhà nước có sự thay đổi. Theo Quyết định số 40/CP ngày 26/2/1970 của Hội đồng Chính phủ, các chức năng, nhiệm vụ quản lý công tác tổ chức nhà nước chuyển từ Bộ Nội vụ về Phủ Thủ tướng.
Năm 1973, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành được nhiều thắng lợi quyết định, để chuẩn bị cho một phương hướng chiến lược mới, chuẩn bị cho một Nhà nước thống nhất. Ngày 20/2/1973, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/CP thành lập Ban Tổ chức của Chính phủ để thực hiện nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý công tác tổ chức, xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước trong tình hình mới. Ban Tổ chức của Chính phủ đảm nhiệm là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong lĩnh vực tổ chức nhà nước. Như vậy, mặc dù có sự điều chuyển tổ chức bộ máy đảm nhiệm các chức năng, nhiệm vụ quản lý công tác tổ chức của Nhà nước ở Trung ương nhưng hệ thống ngành Tổ chức nhà nước vẫn được duy trì, các nhiệm vụ của ngành tiếp tục được triển khai, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi.
Sau Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975), ngành Tổ chức nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong công tác tổ chức và hoạch định chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong điều kiện thống nhất cơ chế, quản lý về tổ chức và nhân sự trên toàn quốc.
Giai đoạn 1975 - 2002: Đổi mới, sắp xếp và hoàn thiện bộ máy
Ngày 30/4/1975, đất nước hoàn toàn thống nhất. Ngành Nội vụ đứng trước nhiệm vụ vô cùng to lớn và phức tạp: thống nhất bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương của hai miền Nam - Bắc. Trong bối cảnh kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã chủ động tham mưu cho Đảng và Nhà nước những chính sách quan trọng, góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế.
Bước vào công cuộc đổi mới, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng, tinh giản bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Các chính sách về quản lý cán bộ, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập, và hoàn thiện bộ bản đồ địa giới hành chính quốc gia đều được triển khai quyết liệt.
Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Lễ kỷ niệm 57 năm ngày truyền thống ngành Tổ chức nhà nước (28-8-1945 - 28-8-2002) (Ảnh: Tư liệu)
Đặc biệt, việc nghiên cứu, xây dựng và đề xuất đổi tên thành Bộ Nội vụ vào năm 2002 là một bước ngoặt quan trọng. Sự kiện này thể hiện sự mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Bộ trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển, hướng tới một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại.
Giai đoạn từ 2002 đến nay: Hiện đại hóa và kiến tạo
Sau năm 2002, Bộ Nội vụ đã khẳng định vị thế là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng và Nhà nước về công tác tổ chức nhà nước, xây dựng chính quyền và cải cách hành chính. Một trong những thành tựu nổi bật là việc Bộ đã tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật quan trọng như Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Những văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho việc quản lý, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cũng như xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả.
Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2025, khi cả hệ thống chính trị quyết tâm thực hiện tinh gọn bộ máy, xây dựng một nền hành chính “tinh - gọn - mạnh”, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, thì vai trò của ngành Nội vụ lại càng trở nên then chốt. Bộ và Ngành Nội vụ là tâm điểm của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, với vai trò nòng cốt tham mưu, đề xuất và trực tiếp gánh vác sứ mệnh lịch sử chưa từng có tiền lệ. sau sắp xếp đã giảm 05 Bộ, 03 cơ quan thuộc Chính phủ, 30 đầu mối cấp tổng cục và tương đương; 1.025 đầu mối cấp cục, vụ và tương đương; 4.413 đầu mối cấp chi cục, phòng và tương đương; giảm 713 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 8.289 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Về sắp xếp đơn vị hành chính, tổ chức mô hình chính quyền địa phương 2 cấp sau sắp xếp đã giảm từ 63 tỉnh còn 34 tỉnh, thành phố; kết thúc hoạt động của 100% đơn vị hành chính cấp huyện; đơn vị hành chính cấp xã giảm còn 3.321 đơn vị.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà chia sẻ trước thời khắc lịch sử sáp nhập 34 tỉnh, thành phố
Trong thời gian tới, trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới, Bộ Nội vụ tiếp tục bám sát các quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển đất nước của Đảng trong giai đoạn mới, phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ, đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Bộ Nội vụ xác định một số nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương thức tổ chức cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong kỷ nguyên mới. Có tầm nhìn và tư duy chiến lược trong xây dựng thể chế với tinh thần coi thể chế là “đột phá của đột phá” để phát triển, phát huy tính tiên phong, mở đường của thể chế trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính nhà nước, quản trị quốc gia, đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong quản lý, quản trị phát triển giữa Trung ương và địa phương; thể chế về lao động, việc làm. Tham mưu xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, kiến tạo phát triển, có năng lực dự báo tình hình, phản ứng chính sách, có khả năng nhận diện các điểm nghẽn, các rào cản để chủ động xây dựng và thực hiện thể chế phát triển, khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của quốc gia.
Thứ ba, đổi mới phương thức đánh giá cán bộ, công chức, viên chức gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ; thực hiện có hiệu quả chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng người tài, tài năng cho khu vực công.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá với yêu cầu đổi mới, cải cách theo tinh thần 04 nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân).
80 năm - một hành trình đầy tự hào! Các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Ngành Nội vụ đã không ngừng nỗ lực, rèn luyện, tiếp nối phấn đấu tạo nên truyền thống vẻ vang. Đó là sự trung thành tuyệt đối với đường lối của Đảng, tận tụy vì sự nghiệp xây dựng đất nước vững mạnh, là ý chí quyết tâm, không chịu lùi bước trước mọi khó khăn, gian khổ, vững bước tiến lên. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Nội vụ hôm nay nguyện lấy truyền thống hào hùng làm sức mạnh, lấy lòng nhiệt huyết và tinh thần đổi mới làm kim chỉ nam hành động. Người Nội vụ sẽ đồng lòng, chung sức vượt qua mọi thách thức, quyết tâm hoàn thành xuất sắc sứ mệnh, vì mục tiêu cao cả là xây dựng một nền hành chính hiệu lực, hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.