BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Ảnh hưởng của việc hút thuốc lá đến thai nhi

25/11/2020 10:56

Theo khuyến cáo, hút thuốc làm giảm cơ hội mang thai của phụ nữ. Mặt khác, hút thuốc trong khi mang thai làm tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ. Đồng thời, khói thuốc lá gây hại cho trẻ sơ sinh trước và sau khi chúng được sinh ra.

Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)

Việc ảnh hưởng tới sức khỏe của phụ nữ hút thuốc và khói thuốc thụ động đối với thai kỳ dẫn đến các tác hại: 1. Phụ nữ hút thuốc khó có thai hơn và có nguy cơ không bao giờ mang thai cao hơn. 2. Hút thuốc trong thời kỳ mang thai có thể gây ra tổn thương mô ở thai nhi, đặc biệt là ở phổi, não và một số nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa hút thuốc của người mẹ và sứt môi. 3. Các nghiên cứu cũng cho thấy mối liên hệ giữa thuốc lá và sẩy thai. Thành phần Carbon monoxide trong khói thuốc lá có thể khiến thai nhi đang phát triển không nhận đủ oxy. Khói thuốc lá cũng chứa các hóa chất khác có thể gây hại cho thai nhi.

Ngoài ra, việc hút thuốc còn ảnh hưởng sức khỏe của người hút thuốc và khói thuốc thụ động có thể ảnh hưởng đối với trẻ sơ sinh.

Những bà mẹ hút thuốc có nhiều khả năng sinh con sớm hơn. Sinh non là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, tàn tật và bệnh tật ở trẻ sơ sinh.

Cũng theo nghiên cứu, cứ năm trẻ được sinh ra từ những bà mẹ hút thuốc khi mang thai thì có một trẻ bị nhẹ cân. Những bà mẹ tiếp xúc với khói thuốc khi mang thai có nhiều khả năng sinh con nhẹ cân hơn. Trẻ sinh ra quá nhỏ hoặc quá sớm đều không khỏe mạnh.

Cả trẻ sơ sinh có mẹ hút thuốc khi mang thai và trẻ sơ sinh tiếp xúc với khói thuốc sau khi sinh đều có nguy cơ tử vong do hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) hơn so với trẻ không tiếp xúc với khói thuốc. Nguy cơ tử vong do SIDS cao hơn khoảng ba lần.

Những em bé có mẹ hút thuốc khi mang thai hoặc tiếp xúc với khói thuốc sau khi sinh có phổi yếu hơn những em bé khác, điều này làm tăng nguy cơ mắc nhiều vấn đề sức khỏe.

Theo Báo cáo của Tổng cục phẫu thuật năm 2004 Điểm nổi bật: Ảnh hưởng đến Trẻ sơ sinh, Trẻ sơ sinh, Trẻ em và Thanh thiếu niên. Cụ thể:

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ hút thuốc trong khi mang thai làm tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ, sinh non, trẻ sơ sinh nhẹ cân, thai chết lưu và hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) (trang 527, 601).

Chất nicotin trong thuốc lá có thể gây co thắt mạch máu của dây rốn và tử cung, do đó làm giảm lượng oxy cung cấp cho thai nhi. Nicotine cũng có thể làm giảm lượng máu trong hệ thống tim mạch của thai nhi  (tr.564).

Nicotine được tìm thấy trong sữa mẹ (tr.616).

Trẻ sơ sinh của bà mẹ hút thuốc khi mang thai có trọng lượng sơ sinh thấp hơn. Trẻ sơ sinh nhẹ cân là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ sơ sinh tử vong (trang 527, Martin và cộng sự 2002). Nhìn chung, phụ nữ mang thai hút thuốc ăn nhiều hơn phụ nữ mang thai không hút thuốc, nhưng con của họ lại nhẹ cân hơn so với trẻ không hút thuốc. Mức thâm hụt cân nặng này sẽ nhỏ hơn nếu những người hút thuốc bỏ thuốc sớm trong thời kỳ mang thai (trang 564 - 565). Người mẹ hút thuốc lá gây ra hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS). So với trẻ sơ sinh không được phơi nhiễm, trẻ tiếp xúc với khói thuốc sau khi sinh có nguy cơ mắc SIDS gấp đôi và trẻ có mẹ hút thuốc trước và sau khi sinh có nguy cơ cao hơn gấp ba đến bốn lần (trang 584 - 585, 601).

Việc bà mẹ hút thuốc khi mang thai làm giảm chức năng phổi của thai nhi (trang 467, 508).

Năm 2001, 17,5% bà mẹ ở độ tuổi vị thành niên hút thuốc khi mang thai. Chỉ 18% đến 25% tổng số phụ nữ bỏ hút thuốc khi họ mang thai (trang 527, 550).

Trẻ em và thanh thiếu niên hút thuốc có thể chất kém hơn và mắc nhiều bệnh về đường hô hấp hơn so với các bạn không hút thuốc. Nói chung, chức năng phổi của người hút thuốc giảm nhanh hơn so với người không hút thuốc (trang 485, 509).

Trẻ em và thanh thiếu niên hút thuốc làm tăng nhanh quá trình suy giảm chức năng phổi trong giai đoạn cuối tuổi vị thành niên và đầu tuổi trưởng thành (trang 473 - 474, 508 - 509).

Trẻ em và thanh thiếu niên hút thuốc có liên quan đến sự phát triển của phổi bị suy giảm, ho mãn tính và thở khò khè (trang 473 - 474, 485, 508 - 509).

 

Ngọc Diệp (sưu tầm)

Tìm kiếm