Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,
tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân _Nguồn: qdnd.vn
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã giúp giữ vững, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng cường bản lĩnh chính trị; nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Công tác tư tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; tìm tòi, bổ sung và phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tổ chức đảng và hệ thống chính trị có những đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong công tác; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước được nâng cao. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác dụng quan trọng trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn 3 thập niên qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng ta trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế cầm quyền và năng lực lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thời gian qua cũng còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Năng lực dự báo, định hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách so với đòi hỏi của thực tiễn. Quản lý, giáo dục đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao. Chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu, việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên ở nhiều nơi còn thiếu nền nếp, chưa trở thành ý thức tự giác. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng chưa đạt hiệu quả cao; việc phân định vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá nhân có một số điểm chưa rõ; thực hiện kiểm soát quyền lực chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” chậm được thể chế một cách đồng bộ. Quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập, để nhiều vụ, việc tồn đọng kéo dài, chậm được xử lý, gây bức xúc trong nhân dân...
Từ thực tiễn và kết quả công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là những vấn đề căn cốt của đổi mới chính trị, liên quan sống còn đến chế độ chính trị, phải trên cơ sở kiên định những vấn đề nguyên tắc mà vận dụng và đổi mới sáng tạo. Kiên định nguyên tắc, lập trường tư tưởng phải đi đôi với đấu tranh chống bảo thủ, trì trệ; đổi mới sáng tạo phải gắn liền với chống cơ hội chính trị.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển, giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nội dung cốt yếu của đổi mới chính trị, liên quan trực tiếp đến giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tác động đến mọi mặt đời sống, quyết định tiền đồ sự nghiệp cách mạng. Bởi vậy, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải được tiến hành bài bản, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, nhưng khi đã có căn cứ vững chắc, cần có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt.
Ba là, kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. “Xây” là công việc thường xuyên, cơ bản, lâu dài, xuất phát từ nhu cầu không ngừng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. “Chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, bởi trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phải có giải pháp đủ mạnh, kiên quyết để ngăn chặn, đẩy lùi, tạo môi trường cho phát triển bền vững. Dù “xây” hay “chống” đều phải tiến hành thận trọng, bài bản, chắc chắc, không được để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, gây mất ổn định chính trị.
Bốn là, đi đôi với giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng, phát huy đầy đủ tính tích cực của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, nhưng không bao biện, làm thay, mà phải coi trọng phát huy vai trò chủ động, tích cực trong quản lý, điều hành của Nhà nước và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội.
Năm là, huy động, lôi cuốn, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, phải “đưa chính trị vào giữa dân gian”(2). Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị không phải là việc riêng của cán bộ, đảng viên, mà phải huy động, lôi cuốn nhân dân tham gia bằng những cơ chế, mô hình phù hợp, từ đóng góp trí tuệ đến nguồn lực, từ tham gia quản lý nhà nước đến kiểm tra, giám sát. Có nhiều kênh phát huy quyền làm chủ của nhân dân, trong đó cần đặc biệt coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Những kết quả đạt được đã tăng cường vai trò lãnh đạo và nâng cao uy tín của Đảng trước nhân dân, tạo cơ sở, tiền đề cho đẩy mạnh xây dựng Đảng thời gian tới. Nhưng tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Diễn biến trên Biển Đông ngày càng phức tạp. Cạnh tranh giữa các nước lớn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xung đột thương mại, hoạt động bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân túy, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và nhiều thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng nổi lên gay gắt. Chất lượng thể chế, chính sách, nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu của thực tiễn. Các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên,... luôn là những thách thức đối với công cuộc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Cơ hội và thách thức nêu trên đòi hỏi Đảng ta phải đặc biệt chú trọng tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngang tầm nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trong đó, cần tập trung vào những định hướng lớn sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị. Trên cơ sở nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bám sát thực tiễn để hoạch định đường lối chính trị đúng đắn và sáng suốt. Đường lối chính trị phải là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân; là thành quả của tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, bảo đảm tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Tính đúng đắn, sáng suốt của đường lối trong thời kỳ mới thể hiện ở việc khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo đột phá đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng phải gắn liền với không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, khi gặp thuận lợi không chủ quan, khi gặp khó khăn không dao động, thật sự tiền phong gương mẫu, xứng đáng với vai trò lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ công tác tư tưởng, lý luận. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng bảo đảm tính khoa học, thiết thực, kịp thời, hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục trong tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Coi trọng lấy gương “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục, tạo hiệu ứng tích cực, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng, kịp thời ngăn chặn tin giả, tin xấu, độc. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đổi mới tư duy lý luận, tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận - thực tiễn phát sinh trong quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế, khẩn trương khắc phục một số mặt còn hạn chế của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp luận cứ khoa học cho xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức và công tác cán bộ. Tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp ủy, chính quyền các cấp, bảo đảm tốt mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; phân định rõ thẩm quyền, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay Nhà nước hoặc buông lỏng lãnh đạo. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm tốt công tác đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ. Hoàn thiện quy định, quy chế, làm rõ vai trò lãnh đạo của tập thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Sàng lọc, thay thế những trường hợp suy thoái, yếu kém, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”. Coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức để Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”. Trau dồi ý thức tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời; nâng cao sức đề kháng trước mọi cám dỗ; thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm; duy trì thường trực ý thức “tự soi”, “tự sửa” trên cơ sở đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hoàn thiện chế độ thực hành đạo đức cách mạng tự giác, có nền nếp. Thực hiện nghiêm quy định nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh cơ hội, thực dụng, “lợi ích nhóm”. Xử lý nghiêm các vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đồng thời cổ vũ, biểu dương các tấm gương đạo đức để tạo ảnh hưởng lan tỏa trong Đảng và xã hội.
Thứ năm, tăng cường kiểm soát quyền lực, đề cao kỷ cương, kỷ luật, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tạo chuyển biến mạnh mẽ đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Hoàn thiện quy định, pháp luật bảo đảm đồng bộ giữa kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng với giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và giám sát xã hội. Kết hợp phòng ngừa với xử lý vi phạm kỷ luật. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực đối với người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và giữ gìn đạo đức, lối sống. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử bảo đảm đủ thẩm quyền bảo vệ pháp luật, giữ vững kỷ cương, kỷ luật. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí bằng hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn và chế tài xử lý nghiêm minh để cán bộ không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không cần tham nhũng. Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tập trung nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổng thể của hệ thống chính trị. Rà soát, kiện toàn bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng dẫm chức năng, nhiệm vụ. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, tăng cường năng lực cầm quyền, không buông lỏng lãnh đạo, không bao biện, làm thay, tôn trọng vai trò chủ động của Nhà nước trong quản lý, điều hành, tuân theo pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm đồng bộ cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương; nêu cao sứ mệnh phục vụ nhân dân; làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Quốc hội, nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng hoạt động lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính liêm chính, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam gắn với tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả, tập hợp, vận động đoàn kết nhân dân, thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
Thứ bảy, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”; “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(3). Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động nhân dân theo hướng thiết thực, lấy nhu cầu, lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân làm động lực quan trọng cho công tác vận động, tập hợp nhân dân; hướng về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo, có ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng. Nêu cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với công tác dân vận, tập trung làm tốt công tác dân vận của chính quyền, trọng tâm là hoàn thiện cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân, chỉnh đốn lề lối, tác phong phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp xúc cử tri, giám sát, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân. Đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện thờ ơ, vô cảm, cửa quyền, hách dịch, nhũng nhiễu đối với nhân dân. Tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, thực chất, hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân./.
VÕ VĂN THƯỞNG-Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
---------------------------------------
(1) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2014, tr. 12
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 698
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 330
Nguồn: tuyengiao.vn