1. Yêu cầu khách quan phải tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy một trong những yếu tố quyết định đưa đất nước giành được những thành tựu vĩ đại, vẻ vang là nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định của đội ngũ cán bộ, đảng viên; trong đó bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt có tính chất quyết định. Đảng ta khẳng định “Đường cách mạng, dù trên mặt trận nào, khi gặp khó khăn, không có những con người, những tập thể tự nguyện xung phong mở đường, quyết chí giành cho được thắng lợi thì không thể đạt được những mục tiêu đã định”(1). Nhờ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trải qua các thời kỳ, Đảng đều luôn coi trọng xây dựng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên - coi đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ hiện nay, Đảng ta nhận định: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện”(2).
Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận: “Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm…”(3).
Về công tác cán bộ, có những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, trọng tâm là quan điểm của Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; quan hệ giữa đức và tài; quan hệ giữa kế thừa và phát triển; quan hệ giữa sự quản lý thống nhất của Đảng với phát huy đầy đủ trách nhiệm của các cơ quan trong hệ thống chính trị; quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; quan hệ giữa phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và hệ thống chính trị. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; các thế lực thù địch đang tìm mọi cách tấn công phá hoại sự nghiệp cách mạng, ra sức xuyên tạc, vu cáo, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, hòng làm tan rã Đảng từ bên trong. Trong bối cảnh và tình hình ấy, nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp không tiếp tục nâng cao sự kiên định, vững vàng về bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không gương mẫu, trong sạch về đạo đức, lối sống thì khó đứng vững và đủ sức lãnh đạo cách mạng; mà ngược lại, cần chuyển thành động lực thúc đẩy, như khẳng định, cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế: “Những hạn chế, yếu kém đó không làm chúng tôi chùn bước mà càng thôi thúc chúng tôi không chỉ có khát vọng, ước mơ mà phải hành động, phải vươn lên mạnh mẽ”(4). Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên mà trước hết là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, bởi sự vững vàng, kiên định của đội ngũ này là nhân tố trực tiếp nhất, quan trọng nhất quyết định sự lãnh đạo thành công hay không của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Trong những năm qua, Đảng ta đã có nhiều chỉ đạo quan trọng nhằm tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, như: Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/2012 một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay; Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.v.v. Nhà nước đã thể chế hóa thành pháp luật để thống nhất thực hiện trong toàn hệ thống chính trị và xã hội.
Bối cảnh, tình hình đó và yêu cầu của thực tiễn công tác xây dựng Đảng; hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đòi hỏi cần tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan điểm chỉ đạo của Đảng “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào”(5); và “Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức”(6).
2. Quan điểm và giải pháp tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
2.1. Quan điểm
Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… đã nêu rõ những quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên như sau:
Thứ nhất, phải luôn luôn bám sát quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, phải nhằm mục tiêu nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, phải tiến hành đồng bộ, từ việc nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, nâng cao năng lực công tác, phương pháp làm việc, tác phong công tác; phối hợp nhiều lực lượng cùng tham gia.
Thứ tư, đề cao vai trò tự giác tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên.
Thứ năm, phải xác định rõ các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên và tạo môi trường thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
2.2. Giải pháp tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, thời gian tới cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau đây để tiếp tục nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt:
Thứ nhất, đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế đã và đang khẳng định rằng, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn thể hiện rõ bản chất khoa học và cách mạng, giá trị và sức sống bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng… chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác-Lênin”(7). Đảng ta luôn khẳng định nhất quán chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của cách mạng Việt Nam: “… trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,… phù hợp với thực tiễn Việt Nam”(8). Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cần luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát triển trên cơ sở tiếp thu các yếu tố tốt đẹp của truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại.
Do đó, phải đẩy mạnh giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu phải: “Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(9).
Theo tinh thần đó, cần đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo đức, lối sống, nhân cách; chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống cơ sở giáo dục quốc dân; các trường cao đẳng, đại học, các trường chính trị, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các bộ, ngành, đoàn thể. Việc giáo dục ở lứa tuổi thiếu nhi, thiếu niên đóng vai trò chủ yếu, quyết định đến hình thành nhân cách con người, do đó cần đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy về đạo đức công dân, nhân cách, truyền thống, lối sống tốt đẹp cho học sinh các bậc học phổ thông. Ở các bậc học trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học, cần nghiên cứu các giải pháp thực hiện có hiệu quả Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân để xây dựng bản lĩnh chính trị cho sinh viên - lực lượng dự nguồn cán bộ của Đảng, Nhà nước. Trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, cần tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị, các môn học về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đảm bảo sau khi kết thúc chương trình đào tạo, bồi dưỡng, người học phải đạt đến tầm có nhận thức lý luận và tư duy, kỹ năng lãnh đạo, quản lý ở tầm chiến lược.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, các chương trình bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị và quản lý hành chính, quản trị quốc gia phải được nghiên cứu xây dựng, đổi mới cho phù hợp 04 nhóm cán bộ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3, khóa VIII (cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh). Cần tiếp tục phân nhóm chi tiết, cụ thể hơn nữa (cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược ở Trung ương, ở địa phương; cán bộ dự nguồn lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược ở Trung ương, ở địa phương...) để thực hiện đúng quan điểm, mục tiêu bồi dưỡng cán bộ của Đảng: “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”(10) và “Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức”(11).
Giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam; về quản lý hành chính, quản trị quốc gia cần gắn với tình hình thực tiễn của cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương, trên thế giới và trong nước; với đường lối, quan điểm của Đảng, chú trọng bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ; định kỳ cập nhật kiến thức mới; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng và phương pháp tư duy ở tầm chiến lược cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; xây dựng các tình huống trong giảng dạy lý luận chính trị, tăng cường đối thoại, hội thảo, tọa đàm, thảo luận trong quá trình giảng dạy và học tập. Cần gắn việc thực hiện Quy định số 164-QĐ/TW ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh… với nghiên cứu kinh nghiệm thành công của các quốc gia trên thế giới để tham mưu cho cấp có thẩm quyền về việc lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và cả chuyên gia quốc tế tham gia các chương trình giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý chủ chốt.
Thứ hai, xác định các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và tạo môi trường thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt.
Xác định các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý chủ chốt phải đảm bảo thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức tại Nghị quyết số 26-NQ/TW và Quy định số 89-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thực tế cho thấy, việc đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức thời gian qua về cơ bản đã bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, đã quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung, thẩm quyền và quy trình đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức để khắc phục hiện tượng nể nang, hình thức trong đánh giá. Việc đánh giá đã căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm khách quan, công bằng. Đã triển khai xây dựng mô hình đánh giá cán bộ, công chức theo kết quả làm việc hàng tháng; xây dựng phần mềm đánh giá kết quả làm việc hoàn toàn trực tuyến được tích hợp chung với hệ thống quản lý hồ sơ cán bộ, công chức.
Tuy nhiên, cần phải sớm khắc phục những hạn chế, như: chưa quy định rõ các chuẩn mực đánh giá phẩm chất chính trị của cán bộ, công chức; quy định về nội dung đánh giá tại điểm a, khoản 1 Điều 56 Luật cán bộ, công chức “Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước” với điểm b cũng của Điều này “Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc” hầu như không thể đo lường, định lượng được nên thường đánh giá thông qua sự cảm nhận chủ quan; tương tự là quy định về đánh giá tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ.v.v.
Vì vậy, cần hoàn thiện thể chế đánh giá về bản lĩnh chính trị theo hướng quy định rõ những tiêu chí chung và các tiêu chí cụ thể về đánh giá, xếp loại đối với 04 nhóm cán bộ, lãnh đạo, quản lý chủ chốt mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3, khóa VIII đã xác định (cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh). Các nội dung cần tập trung là:
Một là, quy định thống nhất, rõ ràng tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ, công chức theo hướng tập trung vào đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, công vụ, thậm chí cần đi sâu hơn là đánh giá thông qua hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội do việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức đem lại, như cách chúng ta đã và đang thực hiện khi đánh giá về cải cách thủ tục hành chính.
Hai là, xây dựng, ban hành chỉ số đánh giá bản lĩnh chính trị - yếu tố thể hiện sự trung thành của cán bộ, công chức đối với sự nghiệp, lý tưởng, mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong quá trình hoạt động công vụ, thực thi quyền lực nhà nước. Các chỉ số và kết quả đánh giá phải có tính định lượng (ví dụ mức độ, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ liên tục trong nhiều năm) để giúp hình thành bản lĩnh chính trị của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước.
Ba là, quy định thống nhất giữa đánh giá bản lĩnh chính trị với kết quả thực thi nhiệm vụ; gắn đánh giá đạo đức công vụ của cán bộ, công chức (nội dung đánh giá) với đánh giá kết quả thực thi công vụ (căn cứ đánh giá). Cần quy định mang tính khái quát, đơn nghĩa về nội hàm để đảm bảo hiệu quả thực sự trong đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức. Đánh giá bản lĩnh chính trị của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt phải căn cứ vào đặc thù từng lĩnh vực, từng địa phương, cơ quan, đơn vị mà họ công tác.
Bốn là, hoàn thiện tiêu chuẩn đối với các nhóm vị trí việc làm theo hướng các tiêu chuẩn này sẽ là căn cứ chính để hình thành tiêu chí đánh giá gắn với thành tích, kết quả thực tế mà cán bộ, công chức đạt được, với các chỉ số đo lường kết quả đánh giá. Trong đó, các tiêu chí đánh giá bản lĩnh chính trị cần phù hợp với từng nhóm cán bộ, công chức khác nhau; không chỉ là căn cứ đánh giá kết quả mà còn làm rõ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XII).
Năm là, xây dựng phương pháp đánh giá phù hợp nhằm đảm bảo tính khách quan của kết quả đánh giá, sao cho không chỉ phân loại được mức độ cống hiến, đóng góp, mà còn làm rõ được những biểu hiện suy thoái của cán bộ, công chức. Đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu trong quyết định kết quả đánh giá, xếp loại; nếu không có sự tương thích giữa kết quả, xếp loại đánh giá cán bộ, công chức và kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm. Cần bám sát Quy định số 132-QĐ/TW ngày 08/3/2018 của Bộ Chính trị về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị; Hướng dẫn số 21-HD/BTCTW ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn việc kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để xây dựng phương pháp đánh giá phù hợp, hiệu quả.
Về tạo môi trường thử thách, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt: cần thực hiện luân chuyển để đào tạo, bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; những trường hợp có triển vọng phát triển được dự kiến bố trí vào chức vụ cao hơn thì luân chuyển vào các chức danh cấp trưởng ở những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn, phức tạp. Thực hiện thống nhất việc bố trí một số chức danh lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy và chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương. Kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chính trị, quản lý, điều hành kinh tế, xã hội sẽ cung cấp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt những tri thức cần thiết về kinh tế, chính trị, xã hội, giúp họ bổ sung kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn; qua đó nêu cao bản lĩnh chính trị, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ, thách thức, thậm chí chấp nhận hy sinh vì lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt phải hướng đến phát huy được vai trò, tầm ảnh hưởng của đội ngũ này vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, theo đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng “Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ”, và “Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ”(12).
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ theo hướng thực hiện nguyên tắc “tổ chức tìm người” để bố trí, sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt đúng chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở trường, đúng việc, đúng người. Cơ quan tham mưu về công tác cán bộ phải lựa chọn và tìm được những cán bộ lãnh đạo, quản lý có tài, có đức xứng đáng với sự tin tưởng của tập thể và niềm tin của nhân dân. Sớm trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, luân chuyển, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Khẩn trương xây dựng, ban hành Chiến lược quốc gia về phát hiện, thu hút, đãi ngộ, trong dụng nhân tài.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo quan điểm, mục tiêu: “Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng”(13). Đẩy mạnh, tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Khắc phục tình trạng cục bộ, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ và sự khép kín trong từng vùng, ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt trẻ, có triển vọng, trong quy hoạch được luân chuyển để rèn luyện bản lĩnh chính trị.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt về việc chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; thực hiện Điều lệ Đảng và quy định về những điều đảng viên không được làm; về thực hiện Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; tự khắc phục, sửa chữa các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí truyền thông... trong kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Gắn kiểm tra, giám sát với thi hành kỷ luật Đảng; xử lý kiên quyết, nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm và những tổ chức đảng yếu kém. Tăng cường kiểm tra trách nhiệm và vai trò nêu gương của người đứng đầu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và lợi ích nhóm.
Về bảo vệ chính trị nội bộ, phải chủ động triển khai các biện pháp, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chức năng thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa những hoạt động phá hoại ổn định chính trị nội bộ. Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp luôn nắm vững và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đồng thời, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo về bảo vệ chính trị nội bộ.
Để hoàn thành trọng trách cao cả của Đảng, Nhà nước đối với đất nước và dân tộc, trong mọi hoàn cảnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt phải luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, như lãnh tụ V.I. Lênin đã dạy: “Chỉ giai cấp nào đi theo con đường của mình mà không do dự, không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những bước ngoặt khó khăn nhất, gay go nhất và nguy hiểm nhất, thì mới có thể lãnh đạo được những quần chúng lao động và bị bóc lột. Chúng ta không cần những sự hăm hở điên cuồng. Điều cần thiết cho chúng ta, chính là bước đi nhịp nhàng của những đoàn quân vững như gang thép của giai cấp vô sản”(14)./.
Lê Vĩnh Tân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
----------------------------------
Ghi chú:
(1) Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Đại hội thi đua toàn quốc lần thứ VI. Nguồn: http://banthiduakhenthuongtw.gov.vn/tabid/154/Entry/611/Default.aspx
(2),(3),(6),(10),(11),(12),(13): Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
(4) Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Diễn đàn thường niên lần thứ hai về cải cách và phát triển Việt Nam 2019, ngày 19/9/2019.
(5) http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xi-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-cua-dang-1600.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2002, tr.476.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 201-202.
(14) V.I.Lênin, Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.349.
Nguồn: tcnn.vn