BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Hoàn thiện quy định về quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đối với đội ngũ viên chức

05/09/2022 19:58

Đội ngũ viên chức là yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao năng suất, chất lượng cung ứng dịch vụ công của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân và xã hội. Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đối với đội ngũ viên chức.

Ảnh minh họa

Thực trạng quy định về quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đối với đội ngũ viên chức

Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành phù hợp với các lĩnh vực quản lý viên chức chuyên ngành, tính khả thi cao; đáp ứng yêu cầu thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ viên chức và sắp xếp hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đặt ra đối với pháp luật viên chức hiện hành.

Thứ nhất, việc xác định vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, một mặt do tính phức tạp của hệ thống chức danh nghề nghiệp của viên chức, mặt khác do các quy định pháp lý và các hướng dẫn hiện hành chưa rõ ràng, đầy đủ. Tại Nghị định số 106/2020/NĐ-CP về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập thay thế Nghị định số 41/2012/NĐ-CP quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập đã quy định: chậm nhất đến hết ngày 30/6/2021, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, lĩnh vực phải ban hành văn bản hướng dẫn về vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý và chức danh nghề nghiệp chuyên ngành, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và định mức số lượng người làm việc đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành, lĩnh vực được giao quản lý; Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành văn bản hướng dẫn về vị trí việc làm chức danh nghề nghiệp chuyên môn dùng chung và hỗ trợ, phục vụ của đơn vị sự nghiệp công lập.

Tuy nhiên, đến nay nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn lúng túng trong việc triển khai thực hiện do chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về các thuật ngữ liên quan đến “vị trí việc làm”, cách phân loại vị trí việc làm và các bước tiến hành xác định vị trí việc làm trong Nghị định số 106/2020/NĐ-CP. Mặt khác, việc mô tả, xác định vị trí việc làm còn liên quan đến các quy định của pháp luật chuyên ngành khác đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Khám bệnh, chữa bệnh...) dẫn đến việc Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo chậm triển khai một số quy định của Luật Viên chức liên quan đến xác định vị trí việc làm, mã ngạch, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.

Thứ hai, từ khi Luật Viên chức năm 2010 có hiệu lực, việc tuyển dụng viên chức được thực hiện theo tinh thần đổi mới: “Phải căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập” và thực hiện theo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Viên chức như: Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Thông tư số 15/2012/TT-BNV của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 04/2015/TT-BNV của Bộ Nội vụ); Nghị định số 161/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập…

Đối với công tác tuyển dụng viên chức,  Chính phủ đã ban hành Nghị định số 106/2020/NĐ-CP về vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 115/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức. Qua đó, hoạt động tuyển dụng viên chức đã có nhiều thay đổi, về cơ bản đã khắc phục được hạn chế và đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan trong tuyển dụng viên chức. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập, như:

- Khoản 2 Điều 24 Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), quy định: căn cứ vào kết quả tuyển dụng, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập ký hợp đồng làm việc với người trúng tuyển vào viên chức. Chế độ hợp đồng làm việc của viên chức được quy định tại Mục 2 Chương III Luật Viên chức, theo đó, đối với viên chức được tuyển dụng sẽ ký hợp đồng xác định thời hạn (từ 12 đến 36 tháng); sau khi kết thúc hợp đồng xác định thời hạn thì viên chức được ký hợp đồng không xác định thời hạn (tương tự với quy định về hợp đồng lao động trong Bộ luật Lao động). Tuy nhiên, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập đã xác định: thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn). Đây cũng là nội dung cần nghiên cứu, sửa đổi trong Luật để bảo đảm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, tránh tâm lý “biên chế suốt đời” trong đội ngũ viên chức.

- Quy định của Nghị định số 115/2020/NĐ-CP về thi tuyển vòng 2 (thi môn nghiệp vụ chuyên ngành) bằng hình thức phỏng vấn hoặc thi viết vẫn còn bất cập ở chỗ nếu cơ quan, đơn vị lựa chọn hình thức thi phỏng vấn thì có thể không đảm bảo khách quan, minh bạch do không tổ chức phúc tra, ghi âm, ghi hình; rất khó để thanh tra, kiểm tra hoặc phúc khảo bài thi.

- Quy định cả hai vòng thi phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương là chưa hợp lý, bởi vì có địa phương khi tuyển dụng chỉ có 30 đến 40 ứng viên dự thi, nhưng quy trình, thủ tục, thời gian có khi phải kéo dài đến vài tháng. Bên cạnh đó, do kỳ thi có quy mô phân tán nhỏ lẻ nên dễ dẫn đến hạn chế, bất cập trong việc kiểm soát và đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan.

- Quy định về cách tổ chức thi trắc nghiệm tại vòng 1: “Sau khi kết thúc phần thi nào thì mới tiếp tục tổ chức phần thi kế tiếp” là nhằm đảm bảo khách quan, công bằng cho các ứng viên dự thi. Tuy nhiên, áp dụng cho phần thi trắc nghiệm trên máy tính là chưa thực sự phù hợp đối với cơ quan, đơn vị tổ chức tuyển dụng theo hệ thống ngành dọc, như ngành thuế, ngân hàng, kho bạc...

- Theo Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, các đối tượng là con bệnh binh không được hưởng ưu tiên trong tuyển dụng viên chức. Trong khi đó, Khoản 5 Điều 21 Luật Viên chức quy định khi tuyển dụng viên chức phải thực hiện nguyên tắc ưu tiên người có công với cách mạng. Theo Điều 1 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 (Pháp lệnh) thì đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi gồm người có công với cách mạng và thân nhân của họ. Như vậy, Luật, Pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật trước đây đều quy định ưu tiên trong tạo việc làm cho đối tượng là con bệnh binh; song Nghị định số 29/2012/NĐ-CP không đưa đối tượng con bệnh binh là đối tượng ưu tiên trong tuyển dụng viên chức là chưa phù hợp.

Thứ ba, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã đánh giá: “Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, không bảo đảm được cuộc sống, chưa phát huy được nhân tài, chưa tạo được động lực để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ viên chức”. Quy định mức lương cơ sở nhân với hệ số không thể hiện rõ giá trị thực của tiền lương. Mặt khác, chưa phát huy được quyền, trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc đánh giá và trả lương, thưởng, gắn với năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công tác của đội ngũ viên chức.

Thứ tư, công tác đánh giá công chức, viên chức theo Nghị định số 90/2020/NĐ-CP về đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức còn có một số bất cập như: chưa có đủ hành lang pháp lý cho việc đánh giá kết quả thực hiện công việc theo vị trí việc làm; chưa thực sự căn cứ vào tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và hiệu quả công việc thực tế của mỗi viên chức, từ đó dẫn đến đánh giá viên chức còn cào bằng, chưa tạo động lực làm việc cho viên chức và cũng chưa có đủ cơ sở để loại bỏ những viên chức không hoàn thành nhiệm vụ ra khỏi đơn vị. Đồng thời, các tiêu chí đánh giá còn chung chung, ít tiêu chí định lượng, khó đánh giá khách quan, chính xác viên chức. Các tiêu chí đánh giá viên chức chưa thật sự chú trọng đến chất lượng và hiệu quả công việc, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của viên chức.

Thứ năm, Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XII đã yêu cầu phải đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và cung ứng dịch vụ sự nghiệp. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý nhà nước về viên chức, quản lý viên chức theo hướng phân cấp, phân quyền rõ cho các bộ, ngành, địa phương, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng vào công tác hậu kiểm của cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức được quy định tại Luật Viên chức năm 2010.

Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đối với đội ngũ viên chức

Một là, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về tuyển dụng viên chức để đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Cần quy định thống nhất kiểm định chất lượng đầu vào viên chức đối với các môn kiến thức chung, ngoại ngữ, tin học (vòng 1) trước khi các cơ quan, đơn vị có thẩm quyền lựa chọn, tuyển dụng viên chức (vòng 2) theo hướng giữ nguyên như quy định trước đây. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền tuyển dụng viên chức cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; các bộ chủ quản chịu trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc tuyển dụng viên chức. Xây dựng cơ chế kiểm soát bảo đảm vừa phát huy tính dân chủ, vừa bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập về quyết định tuyển dụng viên chức.

Xây dựng khung danh mục vị trí việc làm chung đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cùng ngành, lĩnh vực quản lý, trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định, làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý đội ngũ viên chức, bảo đảm phù hợp với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vị trí việc làm cần tuyển dụng. Xây dựng hệ thống danh mục và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp phải gắn với vị trí việc làm và trả lương, xếp lương tương ứng với từng chức danh nghề nghiệp để làm cơ sở xây dựng, quản lý và phát triển đội ngũ viên chức; nâng cao chất lượng phục vụ người dân và xã hội trong các lĩnh vực sự nghiệp.

Đồng thời, xây dựng các tiêu chí, chính sách khuyến khích nhằm thu hút nguồn nhân lực là người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp; hoàn thiện quy chế tổ chức thi tuyển viên chức, thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức theo hướng quy định cụ thể hơn về tiêu chuẩn thành viên ban đề thi, ban coi thi và cách ly các thành viên tham gia làm đề thi tuyển viên chức; quy định phù hợp hơn về trình tự thi trắc nghiệm vòng 1 trên máy tính.

Hai là, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, viên chức có thể tham gia các khóa bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác nhau, như: được cơ quan, đơn vị cử đi; tự bồi dưỡng; bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội. Trong hoạt động tự đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu xã hội cần quy định trường hợp nào thì cần được sự đồng thuận của cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng viên chức; trường hợp nào được hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo, bồi dưỡng hoặc phải hoàn toàn tự túc, hình thức hỗ trợ (nếu có); việc sử dụng văn bằng, chứng chỉ sau khi hoàn thành khóa học như thế nào…

Ba là, hoàn thiện quy định về thu hút, trọng dụng nhân tài vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Sớm ban hành Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài; cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc tiến cử, trọng dụng nhân tài; có cơ chế để Nhân dân tiến cử người hiền tài. Có chế độ thi tuyển khách quan, bình đẳng để lựa chọn được những người thật sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định về môi trường, điều kiện làm việc để bảo đảm cho viên chức có môi trường làm việc an toàn, thân thiện, hiệu quả; quy định về văn hóa công sở để tạo động lực làm việc của viên chức.

Bốn là, về chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ, cần xác định chính xác, khách quan những đóng góp, cống hiến của viên chức để phát huy năng lực, đồng thời đề cao được trách nhiệm của viên chức đối với kết quả, hiệu quả thực hiện công việc. Theo đó, để thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII, cần ban hành quy định về mức lương cụ thể đối với viên chức ở từng vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, tiến tới thực hiện việc xếp lương, trả lương căn cứ vào chất lượng, khối lượng, tiến độ và hiệu quả thực hiện công việc và kết quả đánh giá, xếp loại viên chức. Cho phép người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập được quyền quyết định mức tiền thưởng đột xuất cho viên chức khi được đánh giá và xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ./.

PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, Học viện Hành chính Quốc gia, Bộ Nội vụ

 

Nguồn: tcnn.vn

 

-----------------

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội, Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).

2. Quốc hội, Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2022).

3. Chính phủ, Nghị định số 115/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.

4. Chính phủ, Nghị định số 90/2020/NĐ-CP về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

5. Chính phủ, Nghị định số 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.

6. Chính phủ, Nghị định số 89/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

7. Bộ Nội vụ, Thông tư số 6/2020/TT-BNV ngày 02/12/2020 ban hành quy chế tổ chức thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức, thi nâng ngạch công chức, thi hoặc xét tuyển thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức.

Tìm kiếm