BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

- Công văn số 3163/BNV-CTTN&BĐG ngày 02/6/2025 của Bộ Nội vụ về việc sơ kết 5 năm triển khai Chương trình truyền thông về bình đẳng giới đến năm 2030 - Quyết định số 505/QĐ-BNV ngày 20/5/2025 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức các hoạt động kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Bộ Nội vụ và tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước Bộ Nội vụ lần thứ V năm 2025 - Công văn số 235/CNCC-VP ngày 24/4/2025 của Cục Người có công về việc tiếp tục triển khai, cập nhật dữ liệu người có công vào phần mềm cơ sở dữ liệu người có công với cách mạng - Công văn số 1312/BNV-CNCC ngày 14/4/2025 của Bộ Nội vụ về việc chăm lo đời sống người có công nhân Kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) - Quyết định số 311/QĐ-BNV ngày 04/4/2025 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ công bố thủ tục hành chính nội bộ giữa các cơ quan hành chính nhà nước lĩnh vực Thi đua , khen thưởng thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ - Quyết định số 315/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về việc công bố thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung lĩnh vực việc làm thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Nội vụ
A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail

TRẢ LỜI PHẢN ÁNH, KIẾN NGHỊ

Khi bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự thì có căn cứ miễn truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Người gửi:
Khởi tố các bị can ở khoản 2 Điều 134 BLHS về tội cố ý gây thương tích. Khi bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự thì có căn cứ miễn truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Câu trả lời

Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b)Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, đối với trường hợp trên, khi bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong vụ án cố ý gây thương tích thì không có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, vì không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ban Biên tập