Trong thực tế, bên cạnh cải cách thể chế được xem là cái gốc của mọi cuộc cải cách thì “cải cách” con người - cán bộ, công chức - được xem là yếu tố quyết định đối với sự thành, bại của công cuộc cải cách hành chính nói chung. Hơn lúc nào hết, vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho các cán bộ, công chức trở thành một vấn đề vô cùng quan trọng. Việc học tập và làm theo lời dạy của Bác về đạo đức công vụ vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay, vừa là mục tiêu lâu dài trong việc đẩy mạnh tu dưỡng đạo đức của đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong thời kỳ mới.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức công vụ
Vấn đề đạo đức trong nền công vụ là một nội dung hết sức quan trọng đối với mọi nhà nước. Bởi vì, mọi quyền lực của nhà nước được thực thi phản ảnh qua nền công vụ, và hoạt động công vụ nếu không có những tiêu chuẩn đạo đức làm chuẩn mực thì uy tín của nhà nước sẽ không thể có. Chính vì vậy, mỗi nhà nước bất kỳ nào cũng phải định ra các chuẩn mực đạo đức trong nền công vụ của mình. Bên cạnh những nội dung chuẩn mực mà phần lớn các quốc gia đều sử dụng tương tự như nhau, thì tùy theo đặc điểm văn hóa, tâm lý xã hội, dân tộc mỗi quốc gia lại có những chuẩn mực đạo đức đặc thù riêng trong nền công vụ của mình.
Ý thức rõ vai trò này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước vững mạnh cùng với đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để thực thi công vụ một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và phục vụ nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hũa ra đời. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đó ghi nhận ý tưởng sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thiết lập một nền công vụ mạnh mẽ, sáng suốt của dân, hoạt động vì nhân dân và chịu sự kiểm soát, bãi miễn của nhân dân; một nền công vụ hiện đại, dân chủ, có hiệu lực từ Trung ương đến cơ sở.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng nhiệt huyết, hết lòng vì nước, vì dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó để lại một di sản tinh thần hết sức sâu sắc, cao cả không chỉ góp phần to lớn và quyết định vào thắng lợi của dân tộc trong những năm qua mà còn có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức. Người không để lại những tác phẩm đạo đức lớn, nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết, bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương Đông, rất quen thuộc với người Việt Nam. Chính bản thân Người lại là người thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về đạo đức. Vì thế, Người vừa là một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức trong sáng, tiêu biểu.
Ở nước ta, theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, những chuẩn mực đạo đức, những tiêu chuẩn đạo đức của nền công vụ vẫn bảo đảm tính kế thừa những đặc trưng văn hoá, tâm lý xã hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, những chuẩn mực đạo đức còn được đúc kết kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh, bảo vệ, xây dựng và phát triển mô hình nhà nước dân chủ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, khẳng định đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của cán bộ, công chức. Đạo đức công vụ được thể hiện trong những nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực cơ bản sau:
Một là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Tháng 3/1947, Bác kêu gọi thi đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính”. Sau đó, Bác viết tác phẩm“Cần, kiệm, liêm, chính”, trong đó, Bác coi đó là bốn đức tính không thể thiếu, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người”.
Như vậy, đối với Bác, đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức. Bốn đức tính này trở thành nền tảng cơ bản để trở thành một con người có đạo đức, cơ bản đến mức, “thiếu một đức thì không thành người”. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi cán bộ, công chức lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động.
Trước hết, nói về Cần, đối với công chức, Cần tức là làm đủ số thời gian nhà nước quy định. Đồng thời, Cần cũng có nghĩa là công việc của ngày nào phải làm xong trong ngày ấy. Những công chức như thế, và những công chức đi sớm về muộn, đều là “lười biếng” như nhau. Bác nhấn mạnh, những công chức lười biếng, không siêng năng chăm chỉ ấy, chính là những người đang “lừa gạt dân”.
Về Kiệm: “là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to tới cái nhỏ”. Từ lý giải này của Bác, có thể hiểu Kiệm không chỉ có nghĩa là tiết kiệm tiền của, mà quan trọng hơn, đó là tiết kiệm thời gian, công sức. Đồng thời, không chỉ là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức của bản thân mình, mà còn là tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức của người khác.
Nói về Liêm, Bác cho rằng: “cán bộ cơ quan, đoàn thể cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của nhân dân”. Bác yêu cầu “những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”, nghĩa là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”.
Về chữ Chính, Bác nói rất cụ thể. Bác dặn người công chức: “mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dựng người thì phải dựng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bổ họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình”.
Theo Bác, Chính còn có nghĩa là “ngay thẳng, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc; luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên trên lên trước việc tư. Việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau. Theo Hồ Chí Minh: “Cần và Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà không Kiệm,“thì làm chừng nào xào chừng ấy”… Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển được”. “Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới có Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới hoàn toàn. Một người có Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”. Bác nhấn mạnh: Cần, Kiệm, Liêm, Chính là vô cùng quan trọng và cần thiết, là nền tảng của đời sống mới, là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại; là thước đo văn minh tiến bộ của một dân tộc. Theo Người: Một dân tộc biết Cần, Kiệm, Liêm, Chính “là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Hai là, phải có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.
Hồ Chí Minh yêu cầu: “Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm”. Người giải thích: “Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm”.
Là cán bộ không nên suy bì xem công việc của mình có quan trọng hay không. Công việc nào cũng cần thiết đối với cách mạng. Vấn đề là ở chỗ khi đó làm việc gì dù gặp khó khăn, trở ngại cũng phải quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở: “Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”.
Ba là, chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ.
Mỗi người phải chấp hành nghiêm những quy định của cơ quan, của tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là ta được họ yêu mến. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành công vụ cần phải gương mẫu về đạo đức, tự giác tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp công tác, tránh được những cám dỗ. Tinh thần sáng tạo trong công việc cũng là một chuẩn mực đạo đức mà người cán bộ phải phát huy. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phụ trách phải theo đường lối chung nhưng cũng phải suy nghĩ tìm tòi, có những sáng kiến riêng của mình, theo tinh thần “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, như thế công việc mới “chạy” được.
Bốn là, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc.
Người cán bộ phải luôn có chí tiến thủ, tinh thần cầu tiến bộ. “Xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng ngày càng tiến... Vì vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta cũng phải luôn phát triển, tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là thoái”. Tinh thần cầu tiến bộ, học tập không ngừng là một yêu cầu cao đối với mỗi cán bộ, công chức “Mỗi một đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ, phải nhớ lấy câu nói của ông thầy chúng ta. Tự mãn, tự túc là co mình lại, không cho mình tiến bộ thêm”.
Năm là, có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc.
Mọi người cần đoàn kết thân mật, hợp tác chặt chẽ như tay với chân thì công việc mới hoàn thành được. Bác chỉ ra: “Đối với đồng chí mình phải thế nào? Thân ái với nhau, nhưng không che đậy những điều dở. Học cái hay sửa chữa cái dở. Không nên tranh giành ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ lối hiếu danh, hiếu vị”. Nếu trong một tập thể mà các thành viên có thành kiến với nhau, dè dặt, đối phó với nhau, kèn cựa lẫn nhau thì “nó làm cho trống đánh xuôi kèn thổi ngược, nó làm cho công tác bị tê liệt, hư hỏng”. Tuy nhiên, thân ái, hợp tác ở đây không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi hành công vụ và trong cuộc sống.
Những chuẩn mực đạo đức công vụ này có sự quan hệ, tác động lẫn nhau trong một hệ thống chuẩn mực thống nhất. Có lòng trung với nước hiếu với dân, có lòng yêu thương con người thì mới hết lòng, hết sức đem tài đức của mình phục vụ nhân dân. Có như vậy mới thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tụy vì công việc chung. Nhờ vậy mới giữ được kỷ luật của cơ quan, tổ chức, mới rèn được tinh thần trách nhiệm cao với công việc và ý chí phấn đấu vươn lên không ngừng. Khi giữ được phẩm chất trong sạch, không tham địa vị, danh vọng, tiền tài, có lòng chính trực thì chắc chắn sẽ có tình thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong công việc.
Đạo đức công vụ không phải tự thân có. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải tích cực tu dưỡng, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức công vụ, chắc chắn chúng ta sẽ có một đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy có thể thấy rằng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong toàn bộ Di sản tư tưởng của Người. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ đó thực sự đặt nền móng cho việc xây dựng, hoàn thiện và phát triển một nền công vụ dân chủ, hiện đại ở nước ta.
2. Thực hiện đạo đức công vụ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia
Chủ tịch Hồ Chí Minh không tách đạo đức ra khỏi chuyên môn (đức phải đi liền với tài) không tách đạo đức ra khỏi một con người cụ thể, trong một nghề nghiệp cụ thể. Người đòi hỏi phải “hồng thắm, chuyên sâu”, có đức phải có tài, có tài phải có đức.
Phần này, bài thuyết trình sẽ đề cập đến đạo đức công vụ áp dụng thiết thực vào hoạt động của các cán bộ Cục Văn thư và Lưu trữ, với nhiệm vụ chính trị được giao là bảo quản và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia.
Khi triển khai biến những lời dạy của Bác về Đạo đức công vụ vào trong hoạt động chuyên môn của mình, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đặc biệt quan tâm tới cơ sở phương pháp. Theo kết quả nghiên cứu, để nâng cao đạo đức nói chung và đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp nói riêng thì nên tuân theo những quy luật khoa học. Mục tiêu cuối cùng của công việc này là hình thành ở cán bộ đảng viên thói quen hành vi đạo đức. Thói quen hành vi đạo đức là một quy luật trải qua một quá trình gồm 4 giai đoạn: Tri thức đạo đức, Tình cảm đạo đức, Hành vi đạo đức, Thói quen hành vi đạo đức.
Sơ đồ quá trình giáo dục đạo đức bền vững
Bốn giai đoạn | I Tri thức đạo đức | II Tình cảm đạo đức | III Hành vi đạo đức | IV Thói quen hành vi đạo đức |
Điều kiện | * Đầy đủ…chi tiết * Qua nghe, thấy, cảm nhận, làm * Hấp dẫn | * Tự giáo dục * Giáo dục | * Tự giáo dục * Giáo dục | * Tự giáo dục * Giáo dục * Điều kiện thuận lợi |
Kết quả | Tình cảm đạo đức giúp lĩnh hội tri thức nhẹ nhàng, thoải mái | * ý thức được hành vi đạo đức * Thực hành hành vi đạo đức nhiều ngày * Thói quen hành vi đạo đức hình thành bền vững, lâu dài. |
Nhận thức được yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, lối sống của mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tinh thần đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần phải tự cảm thấy bức xúc, tự cảm nhận nhu cầu tự thân phải thực hiện cho chính mình, vì chính sự phát triển của cá nhân và tập thể mình. Mục tiêu mà Cục VTLTNN đưa ra trong việc triển khai sâu rộng, giáo dục đạo đức công vụ theo tư tưởng HCM tới toàn thể các cán bộ, nhân viên là: Phù hợp, Sát Sao, Thiết thực, Bền vững.
Về mặt tri thức đạo đức, trong những năm qua, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng bằng nhiều hình thức. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là Đảng ủy và các cấp lãnh đạo Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã tuyên truyền và quán triệt tới toàn thể các cán bộ, đảng viên nhận thức được vai trò của ngành, nghề đối với sự phát triển xã hội, vai trò của bản thân từng cán bộ đối với sự phát triển của ngành Văn thư lưu trữ. Điều này được thể hiện trong các văn bản như: Sắc lệnh số 49/SL ngày 12/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Lâm thời Chính phủ nước Việt Nam DCCH quy định việc bắt buộc từ nay các công văn phải có tiêu đề Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Thông đạt số 1C-VP ngày 03/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam DCCH về việc gìn giữ công văn tài liệu. Qua các văn bản trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia” và đánh giá “tài liệu lưu trữ là tài sản quý báu, có tác dụng rất lớn trong việc nghiên cứu tình hình, tổng kết kinh nghiệm, định hướng chương trình kế hoạch công tác và phương châm chính sách về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, cũng như khoa học kỹ thuật. Do đó, việc lưu trữ công văn, tài liệu là một công tác hết sức quan trọng”. Người yêu cầu các Bộ trưởng, ban “chỉ thị cho nhân viên các sở phải giữ gìn công văn, tài liệu và cấm không được hủy bỏ các công văn, tài liệu ấy”, “Hồ sơ hoặc công văn không cần dùng sau này sẽ phải gửi về những Sở lưu trữ công văn thuộc Bộ Quốc gia giáo dục để tàng trữ”.
Khi hiểu thực sự về vai trò của công tác văn thư lưu trữ đối với sự phát triển của xã hội, trong các cán bộ Cục, những người làm nghề văn thư lưu trữ hình thành một lòng yêu nghề sâu sắc. Sự hiểu biết và trải nghiệm đó khiến hình thành lòng yêu nghề với mỗi cán bộ làm văn thư lưu trữ chúng tôi. Lòng yêu nghề là tình cảm say mờ và thái độ sẵn sàng đi tới cùng với nghề mà mình lựa chọn. Chính nhờ lòng yêu nghề này mà các cán bộ Cục Văn thư lưu trữ mới có thể hoàn thành tốt công việc của mình, giải quyết các công việc một cách thành thạo chuyên nghiệp (Thạo nghề) và đầy trách nhiệm (Có trách nhiệm với nghề). Thấm nhuần lời dạy cũng như sự tin tưởng của Bác về công tác văn thư lưu trữ, các cán bộ Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước đó luôn trau dồi đạo đức cũng như trau dồi kỹ năng nghề nghiệp một cách tự giác, nhuần nhị, tự nhiên như một điều thiết yếu cần phải có trong cuộc sống mỗi người, từ đó tự giác thực hiện, tự phấn đấu vươn lên hoàn thiện hơn, công tác hiệu quả hơn.
Song song với sự hình thành những giá trị phẩm chất, những thói quen hành vi đạo đức liên quan trực tiếp tới công việc thuộc lĩnh vực nghề nghiệp của mình, cũng như cán bộ, công chức các cơ quan Nhà nước khác, người cán bộ làm công tác văn thư lưu trữ luôn phấn đấu tự hoàn thiện mình về mọi mặt:
Thứ nhất, rèn luyện phẩm chất, đạo đức nghệ nghiệp để luôn nhạy bén, sáng tạo trong tham mưu cho các cấp lónh đạo về công tác văn thư lưu trữ.
Thứ hai, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, cương lĩnh, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; chấp hành nghiêm túc các quy chế, quy định và nội quy, kỷ luật của cơ quan.
Thứ ba, ra sức học tập, rèn luyện; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác.
Thứ tư, nêu cao tinh thần trách nhiệm, thận trọng, khiêm tốn trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Cuối cùng, luôn rèn luyện để thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; không tham nhũng, tiêu cực, không lãng phí; không lợi dụng nghề nghiệp để trục lợi cá nhân và gây thiệt hại đến lợi ích xã hội, lợi ích của tập thể và của người khác.
Về cách làm, trên cơ sở yêu cầu chung, dựa trên đặc điểm, tình hình của từng đơn vị, Đảng ủy Cục Văn thư lưu trữ Nhà nước lựa chọn lộ trình hợp lý cho từng nội dung công việc, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đơn vị, tổ chức, từng cán bộ phụ trách để phù hợp với điều kiện thực tiễn. Càng xây dựng kế hoạch sát hợp với thực tiễn, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh càng đi vào cuộc sống một cách thiết thực, tránh bệnh hình thức, qua loa, chiếu lệ, hoặc ngược lại, cầu kỳ, lãng phí.
Đặc biệt khi triển khai học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Cục Văn thư lưu trữ nhà nước luôn quán triệt:
Nói phải đi đôi với làm
Xây đi liền với chống
Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng toàn dân trước lúc đi xa, trước hết người nói về Đảng, và vấn đề đạo đức đã được đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Có thể thấy, vấn đề “thấm nhuần đạo đức cách mạng”, “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ trung thành của nhân dân” là những nội dung đáng chú ý. Tuy nhiên, theo chúng tôi, sự đáng chú ý chính là ở chỗ, Người 4 lần nhấn mạnh chữ “Thật” và “Thật sự” chỉ trong một câu, chắc chắn Người đã phải cân nhắc và trăn trở rất nhiều. Thật có nghĩa là đối lập với giả, với dối. Thật sự là đối lập với qua loa, nửa vời, không đến nơi đến chốn. Nhận thức được thông điệp ý nghĩa này, để có được kết quả thật và thật sự, chúng tôi không quên chú trọng hơn tới công tác kiểm tra giám sát, đôn đốc nhắc nhở, kết hợp với khuyến khích động viên, phát động thi đua và khen thưởng kịp thời những người lao động làm việc có tinh thần trách nhiệm, đạt hiệu quả, chất lượng trong công tác được giao.
Thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ thị số 06-CT/TW ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, sau một thời gian, có thể tự hào khi thấy sự chuyển biến sâu sắc trong toàn Cục. Chúng tôi xin phép không nhắc đến những danh hiệu, những thành tích và tập thể và cá nhân Cục đã đạt được. Tuy nhiên, chúng tôi nhấn mạnh tới những kết quả đạt được thể hiện qua sự phấn đấu, tận tụy, sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc Cục thể hiện trong các công tác sau:
a. Công tác bảo vệ, bảo quản an toàn tài liệu
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã ban hành các quy trình nghiệp vụ văn thư, lưu trữ như: Quy trình khử axit cho tài liệu, quy trình vệ sinh tài liệu Mộc bản, Quy trình số hóa tài liệu lưu trữ, Quy trình chuyển dữ liệu số hóa sang phim bảo hiểm, Quy trình mã số phông lưu trữ bảo quản tại các trung tâm lưu trữ quốc gia. Chỉnh lý được hàng trăm mét tài liệu, tu bổ hàng chục nghìn tờ tài liệu bị hư hỏng, lập bản sao bảo hiểm và bản sao sử dụng được hàng trăm ngàn trang ảnh tài liệu các phông quan trọng và có tần suất sử dụng cao. Đây là kết quả của việc cần cù lao động sáng tạo, luôn luôn trau dồi nghiệp vụ, nâng cao sáng kiến, và học hỏi những thành tựu của khoa học công nghệ.
b. Công tác phát huy giá trị tài liệu lưu trữ quốc gia
Tài liệu lưu trữ là một trong những nguồn di sản văn hóa có giá trị đặc biệt của mỗi dân tộc. Tài liệu lưu trữ chỉ thật sự phát huy giá trị khi được khai thác sử dụng để phục vụ các mặt hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Chính vì vậy, công tác tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ là nhiệm vụ quan trọng, mang tính chất chiến lược của mọi cơ quan lưu trữ.
Với sự đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung, tài liệu lưu trữ là một nguồn sử liệu, nguồn tiềm năng thông tin vô tận và quý giá để nghiên cứu mọi lĩnh vực đời sống xã hội của lịch sử Việt Nam đương đại. Để những tài liệu này phát huy được giá trị, trong những năm qua Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đã đặc biệt chú trọng đến công tác tổ chức khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ.
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước đó ban hành Quy trình phục vụ độc giả tại phòng Đọc và Quy trình Cấp bản sao, chứng thực tài liệu lưu trữ tại các Trung tâm lưu trữ quốc gia theo TCVN ISO 9001:2000, tạo điều kiện thuận lợi cho độc giả, đặc biệt là độc giả nước ngoài đến khai thác tài liệu. Bên cạnh đó, các Trung tâm lưu trữ quốc gia đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng cơ sở dữ liệu của các phông tài liệu đưa ra phục vụ độc giả tại phòng Đọc, giúp độc giả có thể tra tìm tài liệu một cách nhanh chóng. Các cán bộ công tác tại phòng Đọc, người trực tiếp phục vụ độc giả và các nhu cầu từ phía xã hội đó luôn luôn ý thức được trách nhiệm của mình. Với phương châm “Gần dân – Nghe dân – Trọng dân” và kỹ năng “Biết cười – Biết cảm ơn – Biết xin lỗi – Biết đúng giờ”, càng ngày chất lượng phục vụ nhu cầu thông tin của xã hội tại các Trung tâm Lưu trữ quốc gia được nâng lên đáng kể.
Ngoài ra, cung cấp bản sao và chứng thực lưu trữ cũng là một việc làm thường xuyên của các Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Công tác này giúp cho các cơ quan và cá nhân xác minh được vấn đề đã xảy ra trong quá khứ, nhưng bị mất chứng cứ, cần phải dựa vào tài liệu lưu trữ làm bằng chứng. Bên cạnh đó, các Trung tâm Lưu trữ quốc gia cũng chủ động giúp các cơ quan và cộng đồng nắm được những thông tin về tài liệu, qua đó họ có thể tiếp cận và sử dụng theo từng yêu cầu cụ thể.
Cục đã tổ chức nhiều cuộc trưng bày, triển lãm tài liệu lưu trữ nhân những dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của dân tộc. Công bố xuất bản nhiều tài liệu lưu trữ có giá trị về mặt văn hóa, lịch sử cao. Đặc biệt, để thực hiện lời dạy của Bác về tri ân các anh hùng, liệt sĩ đó hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, Cục đó sắp xếp, biên mục, scan và tổ chức bàn giao hàng chục ngàn “Hồ sơ kỷ vật của cán bộ đi B” cho nhiều tỉnh thành trong cả nước. Ở công tác phát huy giá trị tài liệu thể hiện rõ nhất tinh thần sáng tạo. Sáng tạo về cách làm và hình thức để thu hút công chúng đến với giá trị của tài liệu lưu trữ. Không chỉ có vậy, một yếu tố quan trọng hơn nữa là bám sát thực tiễn chính trị xã hội của đất nước, nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái trong thực thi công việc.
Hiện nay, khi đến với Cục Văn thư và lưu trữ Nhà nước và các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, chúng ta dễ dàng thấy những hình ảnh tốt đẹp như: hình ảnh Chuẩn mực đạo đức lối sống đóng khung treo tại vị trí trang trọng, dễ thấy, dễ đọc; hình ảnh thân thiện tại phòng đọc và hướng dẫn đoàn tham quan, hình ảnh lời ghi cảm tưởng của nhiều cá nhân…
Thật vui mừng khi chúng tôi nhận được sự quan tâm, sự phản hồi tốt từ phía Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Thật vậy, sự quan tâm tin tưởng, đánh giá cao của Đảng, Nhà nước với Cục thể hiện ở mức đầu tư về kinh phí, quy mô, thể hiện ở việc tạo điều kiện về hành lang pháp lý (Luật Lưu trữ), thể hiện ở sự đầu tư nâng cấp các trụ sở kho tàng lưu trữ, thể hiện ở sự tăng thêm về ngành học, ngành đào tạo với mục đích tạo nguồn nhân lực cho Cục.
Sự quan tâm tin tưởng từ phía nhân dân thể hiện ở sự tăng về số lượng độc giả đến tra tìm, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ quốc gia; thể hiện ở sự tăng về số lượng các cá nhân, gia đình dòng họ hiến tặng tài liệu quý hiếm vào bảo quản tại lưu trữ quốc gia; thể hiện ở sự tăng về các khách tham quan các triển lãm tài liệu lưu trữ; thể hiện ở sự tăng về số lượng các sinh viên quan tâm tới ngành học về văn thư, lưu trữ học. Bên cạnh đó, chúng tôi đã có những bước thành công ở việc tạo ấn tượng trong cộng đồng xã hội về công việc thầm lặng của chúng tôi cũng như về giá trị tài liệu lưu trữ. Điều này thể hiện ở việc tăng về số lượng các thông tin Báo chí truyền thông đưa tin về ngành, tăng về số lượng các bài công bố giới thiệu tài liệu và số lượng phát hành của các sách xuất bản,… Chỉ với một vài điều nêu trên cũng đó cho thấy nhu cầu khai thác thông tin trong tài liệu lưu trữ của xã hội ngày càng tăng và cũng cho thấy ảnh hưởng của tài liệu lưu trữ đối với xã hội ngày càng lớn.
Chúng tôi coi đây là những khởi sắc, thể hiện một hướng đi đúng đắn, đó là lấy Đạo đức và cái tâm của những người làm lưu trữ là xuất phát điểm cho mọi nhiệm vụ được giao.
Có thể tự hào rằng, cùng với quá trình tự ý thức, tự giáo dục mình theo những chuẩn mực đạo đức cách mạng, đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng tôi, những người đang ngày ngày thầm lặng “Nam Bắc sưu tầm, di sản quốc gia lưu giữ lại”, sẽ yêu nghề, hiểu nghề, thạo nghề, trách nhiệm với nghề để làm tốt công tác văn thư lưu trữ, góp phần thúc đẩy công tác đạt hiệu quả, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền hành chính nhà nước, thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện công cuộc cải cách hành chính, bên cạnh đó là làm cho “Cổ kim gạn lọc, tâm hồn dân tộc sáng soi thêm” – đây là giá trị dành cho muôn đời sau.
Những thế hệ lớp người đi trước mở đường, định hướng, còn chúng tôi và các thế hệ sau nữa sẽ là người lát gạch. Lát gạch bằng những viên gạch vừa hồng vừa chuyên, viên gạch của Đạo đức, viên gạch của trí tuệ, để xây dựng một thành trì của những thông tin quá khứ, cơ sở hình thành bộ nhớ của dân tộc, của nhân loại và của thời đại.
Người thuyết trình: Luyện Thị Thu Thủy
Đảng ủy Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Bộ Nội vụ