Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Cộng sản đã sớm phát hiện ra những giá trị nhân văn cao cả của các tôn giáo:
- Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là Bác ái
- Phật Thích ca dạy: Đạo đức là Từ bi
- Khổng Tử dạy: Đạo đức là Nhân nghĩa
Có lẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Cộng sản đầu tiên đã tìm thấy sự tương đồng giữa các học thuyết Cách mạng và tôn giáo đều có một “mẫu số chung”, đó là: “Vì hạnh phúc của con người”, thông qua đoạn văn rất nổi tiếng sau:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là Sự tu dưỡng cá nhân.
Tôn giáo của Chúa Giêsu có ưu điểm của nó là Lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin có ưu điểm của nó là Phương pháp làm việc biện chứng
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những ưu điểm chung đó hay sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội…. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ; Tôi tin rằng, họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết”.
Đã là bạn bè thân thiết và đều có một mục đích, lý tưởng chung giống nhau, thì làm sao phải loại trừ nhau, tiêu diệt nhau?
Như thế, sẽ phải ứng xử với các tôn giáo ra sao? Quan điểm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xác lập khi thành lập nước Việt Nam - Dân chủ - Cộng hòa năm 1945 đó là: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”.
Đây là lập trường xuyên suốt và chi phối chính sách, pháp luật của Nhà nước ta liên quan đến tôn giáo.
Trên thực tế, thì cũng có nơi này, nơi kia đã xảy ra các vụ đụng độ giữa Chính quyền và một bộ phận tín đồ, làm cho không ít người phải lo lắng, muốn Chính phủ, Chính quyền phải dùng biện pháp mạnh… Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh phân tích tình hình, tìm ra nguyên nhân, căn nguyên của các vấn đề:
“Một đàng, có những người Công giáo nhẹ dạ, cả tin; Một đàng khác, có những cán bộ cấp thấp của Chính phủ thiếu tế nhị, rồi những kẻ gây rối lợi dụng khai thác hai yếu tố trên, nhằm tạo ra bầu không khí căng thẳng, không lành mạnh”.
Người đã chủ động trao đổi với các vị chức sắc tôn giáo cao cấp, đưa ra các giải pháp để xứ lý đạt hiệu quả… Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ đề ngày 23/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “ Một đằng, chúng ta cần giải thích cho người Công giáo hiểu rõ chủ trương chính sách của Chính phủ như Đức Cha đang làm. Đằng khác, cần giáo dục cán bộ của Chính phủ như bản thân Tôi đang làm. Như vậy, thì bọn gây rối sẽ không còn có thể chia rẽ chúng ta và sự đoàn kết của toàn dân sẽ được thực hiện.”
Cho đến tận hôm nay: Khi bầu không khí dân chủ đã mở rộng và công cuộc đổi mới của Đảng đã tiến hành được hơn ¼ thế kỷ (gần 30 năm) thực hiện Công cuộc đổi mới, vẫn phải thừa nhận rằng: Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ buổi đầu lập nước có nhiều đại biểu của các tôn giáo nhất. Riêng đại diện Công giáo có các ông Nguyễn Mạnh Hà (Bộ kinh tế), Vũ Đình Tụng (Bộ y tế), các cố vấn gồm Giám mục Lê Hữu Từ, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn và nhân sỹ Ngô Tử Hạ và khi Quốc hội khóa I được bầu có Linh mục Phạm Bá Trực là Phó Chủ tịch Thường trực… Đây không chỉ là sách lược để tranh thủ, tập hợp đồng bào các tôn giáo, mà còn là chiến lược như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Phải đoàn kết chặt chẽ, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo. Đoàn kết là lực lượng, chia rẽ là yếu kém”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành nhiều văn bản, sắc lệnh, để đảm bảo việc sinh hoạt tôn giáo bình thường của Người dân, các cơ sở thờ tự được pháp luật bảo hộ; Cho 6 ngày kỷ niệm của các tôn giáo là ngày nghỉ toàn quốc… Nổi tiếng nhất là sắc lệnh 234/SL ra ngày 14/6/1955, với 5 chương – 16 điều, mà đến hôm nay vẫn mang tính thời sự… Đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sỹ phải tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân; Như khi vào nhà dân không được nằm quay chân lên phía bàn thờ; Khi tiếp xúc với người có đạo cũng phải ý tứ trong ăn nói:
“ Đối với nông dân Công giáo, có đội đã đưa Chủ nghĩa Mác - Lê Nin ra giải thích… Nhiều cán bộ trẻ hễ nói đến Cha cố, không phân biệt tuổi tác, cứ gọi là thằng, làm cho nông dân Công giáo rất khó chịu”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các địa phương nhất là Cấp ủy phải quan tâm cả phần xác và phần hồn cho đồng bào có đạo. Người chỉ rõ: “ Nguyện vọng của đồng bào giáo dân là: Phần xác ấm no – Phần hồn thong dong; Muốn được như thế thì phải ra sức củng cố Hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho xã viên; Đồng thời phải đảm bảo tự do tín ngưỡng cho người dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương những cán bộ ở cơ sở biết giúp đỡ nhân dân trong sinh hoạt tôn giáo, như trang trí Nhà thờ nhân dịp lễ trọng hay chăm lo nơi dâng lễ của các Linh mục đi kháng chiến. Chính bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi nhiều thừ từ cho đồng bào có đạo nhân dịp lễ Giáng sinh, lễ Phật đản hàng năm, chia vui với bà con về những thành tích trong lao động sản xuất, chiến đấu, thăm hỏi chức sắc khi đau yếu, chia buồn với Họ khi có tin không vui… Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bác sỹ Vũ Đình Tụng khi người con trai của Ông hy sinh ở chợ Hôm tháng 01/1947 và Điếu văn Linh mục Phạm Bá Trực ngày 7/10/1954 là những áng văn thấm đậm tình người, đầy xúc động.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành thời giờ đi thăm đồng bào có đạo và chức sắc tôn giáo không chỉ là Người Việt, mà còn cả là người nước ngoài. Người đi thăm Linh mục A – ta – raz ở Bắc Ninh, Linh Mục Mayor ở Bắc Giang. Người tạo điều kiện để các Giám mục Việt Nam gửi thư cho Tòa thành Vatican và cộng đồng Ki tô hữu thế giới ủng hộ nền độc lập của nước Việt Nam năm 1945. Người cũng mau chóng gửi điện thư cảm ơn Đức giáo hoàng Phao – lô VI về giải pháp lập lại hòa bình cho Việt Nam ngày 14/02/1967…
Người Công giáo ở Huế còn nhớ mãi sự kiện đầu năm 1949 khi 600 Linh mục, tu sỹ đang bị kẹt trong vòng vây của quân kháng chiến, có nguy cơ bị đói vì hết đường tiếp tế. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc đánh bao viết thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh xin được vận chuyển lương thực cứu đói cho Nhà Chung. Thật bất ngờ, một tháng sau, Linh mục Nguyễn Văn Ngọc nhận được thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó ghi rõ:
1. Cho phép Linh mục Nguyễn Văn Ngọc được chở 9.000 thùng lúa lên thành phố Huế trong vòng một tháng trợ cấp cho Nhà Chung.
2. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc được tự do đi lại trong tỉnh Thừa Thiên để coi sóc ruộng đất của Nhà Chung, tiếp tục trồng cấy không được bỏ hoang.
Tấm thiệp này, hiện nay vẫn được lưu giữ tại Hội thừa Sai Pa-ri, như một bằng chứng về cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo.
Một cách ứng xử rất hay của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với vấn đề tôn giáo, mà những cán bộ làm công tác tôn giáo ngày nay cần học tập và làm theo, đó là cần biết phối hợp, cộng tác với các chức sắc tôn giáo, nhất là các chức sắc cao cấp để xứ lý các vụ việc liên quan đến tôn giáo, hay vận động đồng bào có đạo, vì họ là những Người thường có uy tín trong việc này…
Đối với tôn giáo, xử sự phải mềm dẻo, chứ không thể cứng nhắc. Điển hình là vụ bắt giữ 7 giáo dân chống chính quyền ở Văn Hải (Phát Diệm) vào năm 1947… Giám mục Lê Hữu Từ bảo lãnh cho tại ngoại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng ý, nhưng tỉnh Ninh Bình không thuận. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải cử ông Vũ Đình Huỳnh về thuyết phục: “Chú nói với Ủy ban hành chính tỉnh Ninh Bình… giải thích cho mọi người biết rằng: Đó là do lòng khoan hồng của Chính phủ và do sự tận tâm của cụ Lê Hữu Từ”.
* Chủ tịch Hồ Chí Minh có phê phán tôn giáo hay không?
Việc này là có, nhưng cách phê phán của Chủ tịch Hồ Chí Minh như Linh mục Giáo sư - Viên sỹ Trần Tam Tỉnh nhận xét: “Các lời phê phán của Cụ đối với giáo hội không bao giờ chạm đến khía cạnh Đức tín, nhưng chỉ nằm ở phạm vi các vấn đề về cơ chế và chính trị…”
Có lẽ vì vậy, nên cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo vẫn là vấn đề nóng bỏng, mang tính thời sự cho đến ngày hôm nay./.