BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Kinh nghiệm của Trung Quốc về phát triển kinh tế số và hàm ý chính sách cho Việt Nam

02/08/2023 15:59

Kinh tế số là một khái niệm mới, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Bên cạnh bám sát vào thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã được phê duyệt tại Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ), việc nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các quốc gia đi trước là rất cần thiết để Việt Nam có thể rút ngắn quá trình phát triển và sớm đạt được mục tiêu quốc gia đề ra.

Một số điểm nổi bật về kinh tế số Trung Quốc

Trong những năm qua, Trung Quốc đã nổi lên trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế số nhanh nhất trên thế giới, với tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm khoảng 10 - 20% liên tục từ năm 2016. Quy mô kinh tế số của Trung Quốc năm 2022 đã đạt 50,2 nghìn tỷ Nhân dân tệ (khoảng 07 nghìn tỉ USD), chiếm khoảng 41,5% GDP. Nếu xét theo giai đoạn, quy mô kinh tế số của Trung Quốc đã tăng gấp 2,2 lần trong giai đoạn 2016 - 2022.

Một cách phổ biến khác để đánh giá tốc độ tăng trưởng của kinh tế số là dựa trên tỉ lệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế số so với tốc độ tăng trưởng GDP. Theo tiêu chí này thì tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Trung Quốc vào khoảng 3,7 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Trong khi đó, tỉ lệ này trung bình của thế giới vào khoảng 2,5 lần.

Không chỉ có đóng góp ngày càng lớn vào GDP, kinh tế số của Trung Quốc đã trở thành một động lực mới cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, làm tăng sức chống chịu (resilient) của nền kinh tế trước những cú sốc từ bên ngoài. Dịch bệnh đã trở thành phép thử cho sự phát triển của nền kinh tế số, bất kể là trong phòng, chống dịch bệnh hay giai đoạn bình thường hóa, vai trò của nền kinh tế số là công cụ tăng tốc và bình ổn của kinh tế vĩ mô ngày càng nổi bật.

Nền kinh tế số không chỉ định hình lại nền kinh tế Trung Quốc mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh cho các công ty mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Thị trường nội địa rộng lớn của Trung Quốc mang lại lợi thế quy mô rộng lớn cho phép thương mại hóa nhanh chóng các công nghệ số.

Khái niệm kinh tế số chính thức xuất hiện lần đầu tiên trong các văn bản tại Trung Quốc vào năm 2016 khi Trung Quốc tổ chức họp nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20). Các nước tham gia đã thống nhất khái niệm kinh tế số: “Nền kinh tế số lấy tri thức và thông tin so làm nhân tố sản xuất then chốt, lẩy công nghệ sổ làm động lực cốt lõi, lấy mạng thông tin hiện đại làm vật dẫn quan trọng, thông qua sự tích hợp sâu rộng giữa công nghệ sổ và nền kỉnh tế thực, không ngừng cải thiện trình độ số hóa, mạng hóa và thông minh hóa của kinh tế xã hội, đẩy nhanh quá trình tái thiết các hình thái kinh tế mới về phát triển kinh tế và mô hình quản trị”.

Từ đó đến nay, Trung Quốc liên tục ban hành các văn bản để làm rõ nội hàm và các sáng kiến thúc đẩy phát triển kinh tế số.

Nội hàm của kinh tế số Trung Quốc khá tương đồng với Việt Nam: cũng coi dữ liệu là yếu tố đầu vào bắt buộc và đóng vai trò ngày một quan trọng trong quá trình sản xuất của nền kinh tế; cũng coi công nghệ số, các nền tảng số, các thuật toán là công cụ lao động mới để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động trong các ngành, lĩnh vực.

Ngoài ra, Trung Quốc nhấn mạnh yếu tố năng lực quản trị số. Khi kinh tế số phát triển sẽ phát sinh các mối quan hệ mới giữa người - người, người - máy và máy - máy. Những mối quan hệ mới này chủ yếu xoay quanh công nghệ, và vì vậy, chính quyền cần phát triển năng lực quản trị dựa trên công nghệ để quản trị nền kinh tế số một cách hiệu quả, lành mạnh và bền vững.

Một trong những nội hàm quan trọng của quản trị số là chính quyền cung cấp các dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) 100% tới người dân, doanh nghiệp.

Hiệu quả của các dịch vụ chính phủ số đã được cải thiện. Với việc tích hợp các công nghệ số mới, “Phê duyệt mà không cần gặp mặt ”, “Đi nhiều nhất một lần ” đã trở thành tiêu chuẩn bắt buộc của các dịch vụ công trực tuyến, giải quyết hiệu quả các vấn đề của người dân và doanh nghiệp trong xử lý các thủ tục hành chính.

Từ góc độ đo lường kinh tế số, kinh tế số Trung Quốc bao gồm 02 thành phần:

Kinh tế số lõi ICT: cụ thể bao gồm ngành sản xuât điện tử, ngành viễn thông, dịch vụ công nghệ thông tin và phần mềm, công nghiệp Internet, …

Kinh tế số ngành, lĩnh vực: định lượng đóng góp của công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực cụ thể. Nếu so sánh với kinh tế số Việt Nam, kinh tế số ngành, lĩnh vực của Trung Quốc tương ứng với vòng 2 và vòng 3, tức là bao gồm cả kinh tế số nền tảng và kinh tế số ngành, lĩnh vực.

Nếu nhìn sâu hơn vào cơ cấu của kinh tế số Trung Quốc, có thể thấy mặc dù kinh tế số Trung Quốc tăng trưởng nhanh, tuy nhiên, đóng góp của từng thành phần vào trong tăng trưởng này không giống nhau, thậm chí là có sự chênh lệch rõ rệt. Tỉ lệ đóng góp của công nghiệp ICT vào kinh tế số vào khoảng 20% và có dấu hiệu giảm dần theo năm. Trong khi đó, đóng góp của kinh tế số ngành, lĩnh vực chiếm một tỉ lệ tương đối lớn, khoảng trên 80%, có xu hướng tăng dần theo từng năm.

Lĩnh vực Công nghiệp: Internet công nghiệp là phương pháp luận cốt lõi của chuyển đổi số. Ứng dụng tích hợp Internet công nghiệp bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng theo hướng: thiết kế nền tảng hóa, sản xuất thông minh hóa, tùy chỉnh cá nhân hóa, cộng tác Internet hóa, mở rộng dịch vụ hóa và số hóa quản lý. 

Phạm vi ứng dụng tiếp tục được mở rộng. Thông qua việc triển khai Dự án Đổi mới và Phát triển Internet Công nghiệp, Trung Quốc đã phát triển hơn 150 nền tảng Internet công nghiệp quy mô lớn và nền tảng này phục vụ hơn 1,6 triệu doanh nghiệp công nghiệp, được triển khai rộng rãi trong 31 ngành then chốt như nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng và thiết bị, bao trùm 41 hạng mục chính của nền kinh tế quốc dân.

Lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Trong những năm gần đây, quá trình chuyển đổi số nông nghiệp đang diễn ra ổn định và tỷ lệ thâm nhập của công nghệ số vào các hoạt động sản xuất và vận hành nông nghiệp không ngừng tăng lên. Theo tính toán của Trung tâm Thông tin của Bộ Nông nghiệp và Nông thôn Trung Quốc, tỉ trọng kinh tế số trong lĩnh vực nông nghiệp của Trung Quốc năm 2020 là 22,5%, tăng 3% so với năm 2019. Xây dựng nông thôn số tiếp tục được đẩy mạnh, 117 thí điểm làng số đã được triển khai trên cả nước, thành lập 09 tỉnh thí điểm mẫu triển khai IoT (Internet vạn vật) trong nông nghiệp và 100 dự án thí điểm nông nghiệp số, 316 cơ sở thí điểm chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn, tiếp tục xúc tiến dự án thí điểm xây dựng dữ liệu lớn toàn chuỗi.

Lĩnh vưc Thương mại điện tử: Thương mại điện tử Trung Quốc đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Bán lẻ trực tuyến tiếp tục phát triển nhanh chóng. Doanh thu bán lẻ trực tuyến toàn quốc năm 2021 đạt 13,1 nghìn tỷ Nhân dân tệ, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong số đó, doanh số bán lẻ hàng hóa trực tuyến đạt 10,8 nghìn tỷ Nhân dân tệ, tăng 12,0% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 24,5% tổng doanh số bán lẻ và đóng góp 23,6% vào tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa tiêu dùng toàn xã hội.

Thương mại điện tử trên các nền tảng mạng xã hội đã trở thành một ứng dụng phổ biến và hiệu quả cao. Theo dõi dữ liệu lớn kinh doanh cho thấy, năm 2021, tổng số lượt phát sóng trực tiếp trên các nền tảng thương mại điện tử vượt 24 triệu, tổng số lượng người xem đạt trên 120 tỷ, số lượng sản phẩm phát sóng trực tiếp đạt trên 50 triệu và số lượng người bán hàng qua livestream hoạt động vượt 550.000 người.

Thương mại điện tử ở nông thôn đặt được những bước đột phá mới. Năm 2021, doanh số bán lẻ trực tuyến ở nông thôn Trung Quốc đạt 2,05 nghìn tỷ Nhân dân tệ (khoảng 287 tỷ đô la Mỹ), tăng 11,3% so với năm 2020. Doanh số bán lẻ nông sản trực tuyến đạt 422,1 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 60 tỉ đô la Mỹ), tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

Một số kinh nghiệm nổi bật trong phát triển kinh tế số của Trung Quốc

Một là, Trung Quốc đã thống nhất được nhận thức và lý luận về kinh tế số từ Trung ương đến địa phương.

Kinh tế số được Đảng, Nhà nước Trung Quôc xác định là trọng tâm cốt lõi, là lợi thế cạnh tranh để Trung Quốc bứt phá vượt lên trên các quốc gia khác. Quyết tâm này thể hiện từ người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc và lan tỏa xuống toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương.

Kinh tế số đã trở thành một nội dung học tập của Bộ Chính trị Trung Quốc. Năm 2021, Bộ Chính trị Trung Quốc đã tiến hành Hội nghị Học tập tập thể về “Nắm bắt xu thế, quy luật phát triển của kỉnh tế số và thúc đẩy kỉnh tế số Trung Quốc phát triển lành mạnh”. Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình đã liên tục chỉ đạo phải làm cho kinh tế số của Trung Quốc “không ngừng mạnh hơn, tốt hơn và lớn hơn”.

Hai là, Trung Quốc đã hình thành hệ thống chiến lược kinh tế số liên kết ngang và thâm nhập dọc.

Ở Trung ương, các cơ quan đã ban hành một hệ thống các văn bản chiến lược, quy hoạch, quy định, hướng dẫn phát triển kinh tế số.

Từ góc độ chiến lược tổng thể, trong giai đoạn thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ 13, Trung ương Đảng và Quốc vụ viện (Chính phủ) Trung Quốc đã ban hành các văn bản quan trọng như “Đề cương chiến lược phát triển theo định hướng đổi mới quốc gia” và “Kế hoạch thông tin hóa quốc gia Kế hoạch 5 năm lần thứ 13”, đưa kinh tế số vào một trong những hướng phát triển chính. Năm 2021, “Kế hoạch 5 năm lần thứ 14” đã làm rõ hơn tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc cơ bản, mục tiêu phát triển, nhiệm vụ trọng tâm và các biện pháp bảo vệ để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế số trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm lần thứ 14.

Ở địa phương, các tỉnh, thành phố của Trung Quốc ban hành chính sách để thực hiện theo định hướng của Trung ương. Năm 2021, các tỉnh, thành phố của Trung Quốc đã ban hành tổng cộng hơn 200 chính sách liên quan đến kinh tế số, tập trung vào các chính sách về công nghiệp ICT, chính sách phát triển kinh tế số ngành, lĩnh vực, chính sách quản trị số và chính sách giá trị hóa dữ liệu. Trọng tâm và mục tiêu của các chính sách kinh tế số có sự khác nhau tùy theo hoàn cảnh, thế mạnh của từng địa phương.

Ba là, vai trò dẫn dắt của cơ quan nhà nước, đặc biệt là phát triển hạ tầng và các yếu tố nền tảng phát triển kinh tế số

Ở cấp cao, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc Vụ viện tích cực xây dựng và ban hành hướng dẫn thúc đẩy phát triển kinh tế số, tập trung vào các nền tảng số công nghiệp.

Ở cấp thực thi, vai trò điều phối, triển khai thí điểm các sáng kiến phát triển kinh tế số của Trung Quốc thuộc về Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin (Ministry of Industry and Information Technology  - MIIT) mà cụ thể là một đơn vị cấp Vụ: Thông tin hóa và Dịch vụ phần mềm. Bộ MIIT thực hiện vai trò điều phối hoạt động của các nhóm công tác, viện nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể và khuyến khích các dự án thử nghiệm nền tảng số trong từng ngành, lĩnh vực.

Các chính sách của MIIT tập trung vào thúc đẩy nhanh quá trình phát triển và đưa vào sử dụng của các nền tảng số. MIIT thực hiện điều phối, đề xuất cấp thẩm quyền giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp nhà nước để xây dựng và triển khai thử nghiệm nền tảng số trong từng ngành, lĩnh vực. Trong số đó, nhiều doanh nghiệp công nghiệp truyền thống đã phát triển thành công nền tảng số dùng chung cho toàn quốc và thực hiện xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài.

Bốn là, Trung Quốc có nhiều đột phá về thể chế gắn với tầm nhìn và phản ứng nhanh với thực tiễn

Lấy ví dụ minh họa về dữ liệu. Trung Quốc coi dữ liệu là yếu tố đầu vào quan trọng, bắt buộc của nền kinh tế số. Trung Quốc đã triển khai các hành động để cụ thể hóa tầm nhìn này như sau:

Thứ nhất, thành lập Cục Dữ liệu quốc gia trực thuộc Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia để phát triển và khai thác tiềm năng dữ liệu từ Trung ương tới địa phương. Chức năng này trước đó thuộc về Cơ quan quản lý không gian mạng quốc gia (CAC). Tuy nhiên, hoạt động của CAC trước đây chủ yếu thiên về quản lý và kiểm soát, do vậy, Trung Quốc thành lập cơ quan mới chuyên trách về phát triển dữ liệu và triển khai chiến lược quốc gia về dữ liệu lớn.

Thứ hai, ban hành quy định coi dữ liệu như một loại hàng hóa đặc biệt, được định giá và có thể được mua bán, trao đổi trên các sàn giao dịch dữ liệu. 

Thứ ba, hình thành ngành công nghiệp dữ liệu. Ngành công nghiệp dữ liệu đã tạo thêm nhiều nghề và vị trí việc làm mới so với trước đây, điển hình là nghề dán nhãn dữ liệu. Bộ Nhân lực và An sinh xã hội Trung Quốc đã chính thức công nhận “Dán nhãn dữ liệu” là một nghề và được đưa vào danh mục phân loại nghề quốc gia từ tháng 4/2020.

Thứ tư, với việc giá trị hóa dữ liệu, dữ liệu đã trở thành một nguồn lực mới mà nhà nước Trung Quốc hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tức là trong các gói hỗ trợ của nhà nước có thêm thành phần dữ liệu.

Năm là, làm điểm, đúc kết và nhân rộng mô hình (cách tiếp cận từ dưới lên)

Các sáng kiến, ý tưởng liên tục được triển khai thí điểm tại các địa phương. Nếu mang lại kết quả tốt sẽ triển khai diện rộng hoặc triển khai ở cấp quốc gia. Việc lựa chọn triển khai thí điểm phụ thuộc vào đặc điểm, thế mạnh của từng địa phương, tập trung vào các sáng kiến về chuyển đổi số ngành, lĩnh vực; phát triển công nghiệp thông minh; quản trị và khai thác dữ liệu; quản trị số, phát triển đô thị thông minh...
    
Sáu là, Trung Quốc hình thành không gian lực kéo phát triển kinh tế số

Để tiếp tục thúc đẩy việc thực hiện liên tục các chính sách chiến lược nền kinh tế số của Trung Quốc, làm cho nền kinh tế số mạnh hơn, tốt hơn và lớn hơn, Trung Quốc định hướng triển khai các mô hình liên kết và mô hình lực kéo để tận dụng, phát huy tốt nhất các đặc trưng và lợi thế công nghiệp của từng khu vực, từng vùng miền. Xét về tổng thể nền kinh tế số, mô hình lực kéo của Trung Quốc đã hình thành bố cục lực kéo theo tầng tập trung vào các thành phố hạng I như Bắc Kinh, Thượng Hải và Thẩm Quyến.

Bảy là, Trung Quốc nỗ lực phát triển và quản lý hướng tới nền kinh tế số lành mạnh, bền vững

Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 về Phát triển kinh tế số của Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường an toàn, an ninh mạng và bảo mật dữ liệu, phù hợp với các nỗ lực quản lý dữ liệu của Trung Quốc kể từ năm 2021. Để quản lý lĩnh vực năng động nhưng còn non trẻ, Trung Quốc đã triển khai nhiều biện pháp quản lý, giải quyết các vấn đề như lạm dụng dữ liệu và hành vi độc quyền thị trường nhằm tạo ra một thị trường công bằng và đổi mới.

Lãnh đạo 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới nhóm họp tại thành phố Hàng Châu, Trung Quốc. Ảnh: Reuters

Tám là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phát triển kinh tế số, thông qua đó tạo ảnh hưởng quốc tế

Trung Quốc đã tích cực tham gia các cuộc tham vấn và thảo luận về các vấn đề kỹ thuật số trong các cơ chế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Khung đối tác kinh tế số BRICS, Sáng kiến hợp tác bảo mật dữ liệu “Trung Quốc + 5 nước Trung Á”, v.v. Tổ chức Quốc tế Hội nghị Internet Thế giới 2022 chính thức được thành lập, với số lượng thành viên đến từ hơn 20 quốc gia trên 6 châu lục, trong đó có hơn 100 cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Phát hành Sách Trắng “Cùng nhau làm việc để xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai trong không gian mạng”. Việc mở cửa và hợp tác thương mại điện tử tiếp tục sâu rộng, Trung Quốc đã ký các biên bản ghi nhớ hợp tác thương mại điện tử với 28 quốc gia và thiết lập các cơ chế hợp tác thương mại điện tử song phương.

Một số đề xuất, hàm ý phát triển cho Việt Nam

Thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng bản đồ chính sách về phát triển, quản lý kinh tế số, đặc biệt là lộ trình chính sách tương ứng với từng giai đoạn phát triển của kinh tế số

Kinh tế số, cũng như kinh tế truyền thống đều trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Do vậy, cần lộ trình phát triển cụ thể, kèm chính sách thúc đẩy, quản lý phù hợp cho từng giai đoạn.

Trong giai đoạn thúc đẩy phát triển, cần khuyến khích các địa phương đăng ký triển khai sáng kiến phát triển kinh tế số trên địa bàn. Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ ngành liên quan cùng đồng hành, hướng dẫn triển khai và tổng kết, nhân rộng điển hình.

Khi kinh tế số phát triển mạnh tới mức độ nào đó, Việt Nam cần lưu ý tới các chính sách, công cụ phát triển kinh tế số lành mạnh, bền vững. Xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật để kết nối, đo lường, giám sát các hoạt động kinh tế số, sớm phát hiện và dự báo những tác động tiêu cực và kịp thời điều chỉnh.

Thứ hai, Việt Nam cần xác định tập trung vào chuyển đỗi số các ngành, lĩnh vực, bởi đây là không gian phát triển rất lớn

Cần xác định nội dung trọng tâm của từng lĩnh vực để thực hiện chuyển đổi số, mang lại hiệu quả lớn. Ví dụ: Trong lĩnh vực giao thông vận tải, việc chuyển đôi số 145 cảng biển, hay triển khai các sáng kiến cảng mở để đón được siêu tàu quốc tế vào các cảng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Tương tự, cần xác định các nội dung cốt lõi trong phát triển nông nghiệp, du lịch hay phát triển kinh tế tại các cửa khẩu và các lĩnh vực tiềm năng khác.

Thông qua chuyển đổi số ngành, lĩnh vực, thúc đẩy phát triển các nền tảng số dùng chung quốc gia theo từng ngành, lĩnh vực.

Thứ ba, xây dựng Sách Trắng thường niên về kinh tế số

Hiện nay, Việt Nam chưa có nguồn thông tin công bố chính thức về mức độ phát triển kinh tế số quốc gia và kinh tế số tại các địa phương. Việc xây dựng Sách Trắng về kinh tế số và ban hành theo từng năm sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, xuyên suốt cả quá trình phát triển kinh tế số và từ đó, hoạch định chiến lược cho các năm tiếp theo. Sách Trắng về kinh tế số cũng là nơi tổng hợp các kinh nghiệm hay, thực tiễn tốt, trường hợp điển hình để các nơi tham khảo, nghiên cứu, vận dụng.
 

Thu Trang (Nguồn: Báo cáo số 76/BC-BTTTT)
Tìm kiếm