Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, sáng 24/5, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi).
Trong buổi thảo luận, đã có 13 lượt đoại biểu phát biểu góp ý cho Luật Lưu trữ, với các nội dung cụ thể, thiết thực.
Phát biểu tại hội trường, đại biểu Trần Thị Thu Đông - Đoàn Bạc Liêu nêu quan điểm đối với khoản 1 Điều 2: “Lưu trữ là hoạt động lưu giữ tài liệu nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị của tài liệu lưu trữ, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân”.
Theo đại biểu, khái niệm này cần bổ sung thêm “bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cá nhân, tổ chức, cơ quan trong xã hội”. Việc bổ sung này cũng phù hợp với nguyên tắc số 3 tại Điều 4 của dự thảo Luật (bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật).
Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần sửa đổi quy định tại Điều 61 nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa Luật Lưu trữ và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Bên cạnh đó, việc xác định những ai được tiếp cận với nguồn tài liệu điện tử đó cũng cần được quan tâm và xác định chi tiết.
Ngoài ra, việc lưu trữ tài liệu điện tử để có thể phát huy hiệu quả trên thực tế, cần có sự tích hợp giữa nguồn tài liệu điện tử và vấn đề cải cách thủ tục hành chính.
“Theo đó, những tài liệu phục vụ cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thì cần mở rộng quyền tiếp cận đến tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội để họ xác định đúng quyền và nghĩa vụ của họ trong quan hệ pháp luật hành chính cụ thể và thông qua đó nhiều thủ tục hành chính rườm rà được cắt giảm, hiệu quả quản lý nhà nước nâng lên đáng kể”, đại biểu Đông kiến nghị.
Còn đại biểu Lê Thị Thanh Lam, đoàn Hậu Giang đề nghị nên đánh giá kỹ sự cần thiết, không quy định hoạt động dịch vụ lưu trữ là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
“Việc xác định các ngành nghề trên là các ngành nghề kinh doanh có điều kiện cần được cân nhắc, xem xét, đối chiếu với nội dung quy định tại khoản 4 và Khoản 5 Điều 5 của dự thảo luật. Việc ràng buộc điều kiện kinh doanh đối với hoạt động dịch vụ lưu trữ dường như đi ngược lại với chính sách này.
Mặt khác không nhận thấy lợi ích từ cộng đồng nào phải bị ảnh hưởng tác động nếu không kiểm soát điều kiện của tổ chức, cá nhân có hoạt động dịch vụ lưu trữ tài liệu. Đây là yếu tố quan trọng để xác định có cần thiết phải áp dụng điều kiện kinh doanh hay không”, bà Lam nói.
Đã tiếp thu, chỉnh lý nhiều nội dung cho xác đáng hơn
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) do Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường trình bày nêu rõ, dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý gồm 8 chương với 65 điều, đã bám sát mục tiêu, quan điểm đề ra khi xây dựng dự án Luật, kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng, khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện Luật Lưu trữ năm 2011, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của công dân theo quy định của Hiến pháp, đồng thời, thực hiện định hướng đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động lưu trữ, xây dựng một xã hội lưu trữ.
Về thẩm quyền quản lý tài liệu lưu trữ và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ (Điều 9 và Điều 10 của dự thảo Luật), có ý kiến đề nghị quy định tài liệu lưu trữ ở cấp xã là nguồn nộp lưu vào lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở cấp tỉnh. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, ý kiến của đại biểu Quốc hội là xác đáng.
Qua khảo sát thực tế tại một số địa phương cho thấy, khối lượng hồ sơ, tài liệu được lưu trữ tại cấp xã rất lớn, chủ yếu là tài liệu chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành thuộc lĩnh vực hộ tịch, đất đai và tài liệu hình thành trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, bao gồm cả tài liệu lưu trữ vĩnh viễn.
Trong khi đó, nguồn lực về con người và cơ sở vật chất cho công tác lưu trữ tại cấp xã rất hạn chế, dẫn đến việc lưu trữ tại nhiều địa phương không bảo đảm, tài liệu bị hư hỏng, thất thoát. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về quy định tài liệu lưu trữ vĩnh viễn của cấp xã thuộc nguồn nộp vào lưu trữ lịch sử của Nhà nước ở cấp tỉnh (khoản 4 Điều 10 của dự thảo Luật), đồng thời chỉnh lý quy định tại Điều 18 về cơ quan, tổ chức nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử của Nhà nước để bảo đảm tính thống nhất.
Liên quan đến nội dung về thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử (Điều 17 của dự thảo Luật), một số ý kiến đề nghị rút ngắn thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử, cụ thể: đối với tài liệu lưu trữ số, thời hạn tối đa là 30 tháng; đối với tài liệu lưu trữ giấy, thời hạn tối đa là 5 năm, tính từ năm kết thúc công việc.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý quy định về thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử tối đa là 5 năm, nhưng tính từ năm tài liệu được nộp vào lưu trữ hiện hành và áp dụng thống nhất cho cả tài liệu giấy và tài liệu số (khoản 3 Điều 17 của dự thảo Luật) với các lý do như: Việc rút ngắn thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của công dân và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ; hạn chế tình trạng thất thoát tài liệu lưu trữ vĩnh viễn và giúp bảo quản tài liệu lưu trữ tốt hơn...
Đối với việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, một số ý kiến đề nghị tiếp tục rà soát để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa dự thảo Luật với các luật có quy định về lưu trữ.
Về vấn đề này, Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát quy định của pháp luật hiện hành về lưu trữ và nhận thấy, một số luật hiện hành có quy định đặc thù về lưu trữ liên quan đến chế độ bảo quản, thời hạn lưu trữ, cấp bản sao; nếu bãi bỏ quy định về lưu trữ tại các luật này để thực hiện thống nhất theo quy định Luật Lưu trữ thì sẽ không phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động lưu trữ của một số bộ, ngành và khó bảo đảm tính khả thi.
Do vậy, để bảo đảm hoạt động lưu trữ tài liệu Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam phù hợp với nguyên tắc của hoạt động lưu trữ theo quy định của Luật Lưu trữ, đồng thời cũng phù hợp với hoạt động lưu trữ tài liệu của một số ngành, lĩnh vực đặc thù, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bổ sung một điều về áp dụng Luật Lưu trữ và pháp luật có liên quan như thể hiện tại Điều 3 của dự thảo Luật
Không phải dịch vụ kinh doanh có điều kiện nhưng phải phù hợp thực tế
Giải trình, làm rõ nội dung đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cho biết, những ý kiến, kiến nghị của các đại biểu là rất quan trọng, sát đáng đóng góp vào việc hoàn thiện Luật Lưu trữ.
“Khi nước ta hòa cùng xu thế của thế giới, hòa nhập trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc thúc đẩy Chính phủ điện tử, Chính phủ số là điều dễ hiểu. Việc chia sẻ dữ liệu số hóa để cho phù hợp với xu thế của thời địa. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo an toàn thông tin dữ liệu và quốc phòng an ninh”, Bộ trưởng Nguyễn Thị Thanh Trà nói.
Về vấn đề dịch vụ lưu trữ, là dịch vụ kinh doanh có điều kiện, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho biết, việc này luật không quy định, nhưng việc tài liệu lưu trữ là lĩnh vực chuyên sâu, nên cần đưa vào quy định cụ thể.
“Tại Điều 36 của Luật Lưu trữ hiện hành đã quy định tổ chức, cá nhân hoạt động dịch vụ lưu trữ phải đáp ứng các điều kiện nhất định, thực chất là điều kiện đầu tư kinh doanh.
Thực chất các hoạt động lưu trữ nó là một hoạt động mang tính chuyên môn nghiệp vụ rất sâu liên quan đến tài liệu lưu trữ- là tài liệu lịch sử chứa đựng rất nhiều thông tin quan trọng của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân thì cần phải được bảo đảm an ninh thông tin và quản lý chặt chẽ. Theo đó quy định cụ thể các điều kiện kinh doanh đối với hoạt động dịch vụ lưu trữ thì trong nội dung thiết kế thì cũng thiết kế theo các cấp độ khác nhau cho nó phù hợp với thực tế, để khuyến khích và thúc đẩy được xã hội hóa cho hoạt động lưu trữ”, bà Trà nói.
Về nguồn nhân lực cho lưu trữ, những chính sách đãi ngộ...Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho biết, vẫn phải theo quy định của Chính phủ, nhưng sẽ theo phương châm, “ít nhưng tinh thông”, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Sử dụng đội ngũ lưu trữ theo hướng chuyên nghiệp, chuyên môn hóa sâu.
--------
Dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) được xây dựng trên nguyên tắc kế thừa, phát huy và hoàn thiện những quy định của Luật Lưu trữ năm 2011 còn phù hợp với thực tiễn; đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định chưa rõ, còn bất cập, chưa thống nhất trên nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất đồng bộ trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Dự thảo Luật đã đề ra 6 nguyên tắc lưu trữ cơ bản, trong đó, việc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước là yếu tố quan trọng và sự tham gia của cộng đồng, xã hội, công chúng nhân dân là điều tiên quyết. Đồng thời, cần phải bảo đảm mục tiêu phát huy hiệu quả giá trị của tài liệu lưu trữ vì lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ lưu trữ quốc tế…