Sau thắng lợi vang dội của Cách mạng Tháng Tám, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách. Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám tới ngày Toàn quốc kháng chiến, tuy là một khoảng thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử Việt Nam hiện đại nói chung và trong lịch sử của ngành tổ chức chính quyền - nhà nước và của Bộ Nội vụ nói riêng. Đây là thời kỳ mà chính quyền cách mạng non trẻ vừa phải đối phó với nhiều loại kẻ thù bên trong, như "giặc đói", "giặc dốt" và các thế lực phản động, đồng thời vừa phải đối phó với nhiều thế lực giặc ngoại xâm hung ác.
Ở bắc vĩ tuyến 16, 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tràn vào trên danh nghĩa là "giải giáp quân đội Nhật", nhưng thực chất là vừa tranh thủ vơ vét, vừa thực hiện âm mưu "diệt Cộng, cầm Hồ", thủ tiêu chính quyền cách mạng để đưa bọn tay sai phản động lên nắm quyền. Ở miền Nam, dưới danh nghĩa Đồng minh, thực dân Anh đưa quân vào chiếm đóng, hậu thuẫn cho thực dân Pháp khôi phục chế độ thống trị thực dân của chúng trên đất nước ta.
Các thành viên Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9-1945. (Ảnh Tư liệu)
Đứng trước yêu cầu cấp bách phải sớm ổn định tình hình, củng cố chính quyền cách mạng, biến chính quyền đó thành công cụ đắc lực cho việc củng cố khối đoàn kết dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng, đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, ngày 28/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chính phủ lâm thời gồm 13 Bộ và 15 vị Bộ trưởng gồm các đồng chí:
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Chủ tịch kiêm Ngoại giao
2. Đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Nội vụ
3. Đồng chí Trần Huy Liệu - Bộ trưởng Bộ Thông tin - Tuyên truyền
4. Đồng chí Chu Văn Tấn - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
5. Đồng chí Dương Đức Hiền - Bộ trưởng Bộ Thanh niên
6. Đồng chí Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Bộ Kinh tế quốc gia
7. Đồng chí Nguyễn Văn Tố - Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội
8. Đồng chí Vũ Trọng Khánh - Bộ trưởng Bộ Tư pháp
9. Đồng chí Đào Trọng Kim - Bộ trưởng Bộ Giao thông - Công chính
10. Đồng chí Lê Văn Hiến - Bộ trưởng Bộ Lao động
11. Đồng chí Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế
12. Đồng chí Phạm Văn Đồng - Bộ trưởng Bộ Tài chính
13. Đồng chí Vũ Đình Hoè - Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
14. Đồng chí Cù Huy Cận - Bộ trưởng không giữ Bộ nào
15. Đồng chí Nguyễn Văn Xuân - Bộ trưởng không giữ Bộ nào
Như vậy, ngày 28/8/1945 là ngày khai sinh của Bộ Nội vụ và của ngành Tổ chức xây dựng chính quyền nhà nước. Đồng chí Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên giữ cương vị Bộ trưởng, lãnh đạo Bộ Nội vụ và công việc tổ chức chính quyền, an ninh, nội trị trong thời kỳ nước nhà mới giành lại được chủ quyền.
Sau khi thành lập, cơ quan Bộ Nội vụ được đặt tại toà nhà số 12 đường Ngô Quyền. Trong cơ cấu Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bộ Nội vụ có vai trò rất quan trọng. Lúc đó, tuy có Chủ tịch phủ nhưng thực tế chỉ có rất ít cán bộ nên nhiều công tác của Chủ tịch phủ đều do Bộ Nội vụ đảm trách. Như vậy, Bộ Nội vụ vừa có chức năng tổ chức xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự trị an, lại vừa đảm nhiệm một phần chức năng của Chủ tịch phủ, theo dõi và điều hành công tác nội trị, pháp chế, hành chính công và là đầu mối phối thuộc hoạt động của các bộ khác.
Để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, Bộ Nội vụ đã nhanh chóng xây dựng và củng cố cơ quan Bộ. Trước tiên là công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, cơ cấu tổ chức của Bộ.
Để xúc tiến ngay công việc trước mắt tổ chức ra bộ máy hoạt động của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng. Ngay trước khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 01/SL ngày 30/8/1945 cử ông Hoàng Minh Giám giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng về mọi công việc. Đồng thời, ông Hoàng Minh Giám đã trực tiếp làm Thư ký Hội đồng Chính phủ, kiêm nhiệm chức năng như một Bộ trưởng phụ trách Văn phòng Chính phủ sau này.
Một trong những biện pháp cải tổ bộ máy hành chính công quyền đầu tiên của Chính phủ là xoá bỏ các ngạch quan lại cũ của bộ máy chính quyền thực dân, tổ chức hệ thống các cơ quan chính quyền mới. Ngày 3-10-1945, theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 41/SL quy định tất cả các công sở và các cơ quan thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương đã thành lập ở Việt Nam đều bị bãi bỏ.
Để khắc phục tình trạng thiếu cán bộ, công chức thông thạo nghiệp vụ hành chính công, đồng thời nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, Sắc lệnh này cũng quy định việc tuyển chọn và sử dụng nhân viên, công chức của hệ thống chính quyền cũ. Theo đó, Sắc lệnh quy định chuyển giao nhân viên của Toà công chức phủ Toàn quyền, Ty Pháp chế và Hành chính, Ty Hành chính tố tụng và Hành chính kiểm sát, Ty Nội chính thuộc tòa Chính trị phủ Toàn quyền, Toà Liêm phóng phủ Toàn quyền, Ban Công báo của phòng Công văn phủ Toàn quyền sang Bộ Nội vụ. Một số nhân viên của bộ máy chính quyền cũ có hạnh kiểm, tư cách tốt, có trình độ nghiệp vụ cao đã được tuyển chọn làm việc trong Bộ Nội vụ.
Ban đầu cơ quan Bộ Nội vụ chỉ có vài chục công chức, nhân viên và 3 thanh tra viên. Những nhân viên thanh tra thường được cử đi các tỉnh để tìm hiểu, nắm bắt tình hình địa phương phản ánh lên Bộ và giúp đỡ chính quyền địa phương giải quyết khó khăn.
Sau khi Chính phủ lâm thời cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời (ngày 1/1/1946), ngày 19/1/1946, Bộ Nội vụ đã ra Nghị định quy định tổ chức của Bộ mình. Theo Nghị định này, Bộ Nội vụ bao gồm Bộ trưởng, Đổng lý Văn phòng, Chánh Văn phòng. Cơ quan Bộ có hai bộ phận: Văn phòng và bốn Nha (Nha Công chức và Kế toán, Nha Pháp chế và Hành chính, Nha Thanh tra và Nha Công an).
Trong tình thế cấp bách của công cuộc xây dựng chính quyền mới, tổ chức Bộ Nội vụ đã bước đầu được xây dựng, nhanh chóng bắt tay vào công cuộc xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng từ Trung ương đến địa phương. Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, cuộc Tổng tuyển cử diễn ra ngày 6-1-1946 đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 333 đại biểu, đại diện cho các thế hệ, các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tôn giáo, thành phần dân tộc và các đảng phái chính trị ở Việt Nam.
Tại phiên họp đầu tiên ngày 2/3/1946, Quốc hội đã chấp nhận sự từ chức của Chính phủ Liên hiệp lâm thời, đồng thời trao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Do đã có chủ trương và chuẩn bị từ trước, dựa trên cơ sở thoả thuận với các "đảng phái đối lập", việc thành lập Chính phủ được tiến hành khá nhanh chóng và Quốc hội đã công nhận chính thức danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh đề nghị. Đây là Chính phủ đầu tiên được cơ quan quyền lực tối cao của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà phê chuẩn. Sự thành lập của Chính phủ này đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử chínhquyền cách mạng Việt Nam. Đồng thời đây cũng là một thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử quan trọng.
Trong thành phần Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ngày 22/3/1946, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Hoàng Minh Giám được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ, ông Phạm Khắc Hoè giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ.
Trước đó, cũng theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ngày 21/2/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh "hợp các sở Cảnh sát và các sở Liêm phóng toàn quốc thành một cơ quan đặt tên là Việt Nam Công an vụ".
Nhằm tiếp tục củng cố chính quyền thêm một bước, ngày 3/5/1946, theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 57/SL quy định tổ chức bộ máy của các Bộ. Cũng trong ngày hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58 quy định về tổ chức và chức năng của cơ quan thuộc Bộ Nội vụ. Đây là một văn bản pháp lý rất quan trọng, chính thức quy định cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ. Theo đó, tổ chức bộ máy của Bộ Nội vụ đã được kiện toàn thêm một bước, có hai nha mới được thành lập là Nha Thông tin Tuyên truyền và Nha Dân tộc thiểu số.
Như vậy, trước yêu cấp thiết của cách mạng Việt Nam, đến giữa năm 1946 bộ máy của Bộ Nội vụ cũng đã nhanh chóng được xây dựng và kiện toàn. Cấp trung ương được tổ chức tương đối hoàn chỉnh với một văn phòng, một phòng trực thuộc và 6 nha. Riêng Việt Nam Công an vụ và Nha Thông tin đã tổ chức được hệ thống dọc xuống các địa phương.
Sự ra đời của Bộ Nội vụ ngày 28/8/1945 là một mốc son khởi đầu, không chỉ đặt nền móng cho một ngành trọng yếu mà còn khẳng định ý chí quật cường, tinh thần dân chủ và khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam. 80 năm qua, ngành Nội vụ tự hào tiếp nối truyền thống vẻ vang, vững bước trên con đường đổi mới, góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.