BỘ NỘI VỤ

MINISTRY OF HOME AFFAIRS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM

A- A+
Thay đổi tương phản

Tương phản

- +
Điện thoại
Nhắn tin
Gửi mail


Thông tin các chương trình và dự án hợp tác quốc tế của Bộ Nội vụ

04/11/2009 14:55

 

 

 

THÔNG TIN CÁC CHƯƠNG TRÌNH VÀ DỰ ÁN HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA BỘ NỘI VỤ
 
Năm 1999, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính với sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng tài trợ quốc tế, nhiều dự án hỗ trợ kỹ thuật về cải cách hành chính được xây dựng và đưa vào thực hiện. Để đảm bảo tính thống nhất trong công tác quản lý hợp tác quốc tế đối với lĩnh vực cải cách hành chính, và để phù hợp với nội dung Nghị định số 87/1997/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/8/1997 về việc ban hành Quy chế Quản lý sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Chính phủ đã ban hành Nghị định số 03/1999/NĐ-CP ngày 28/01/1999 về quản lý hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CCHC, và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ ban hành thông tư số 19/1999/TT-TCCP hướng dẫn thực hiện. Trong thời gian qua, Nghị định 03/1999/NĐ-CP đã phát huy vai trò, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực cải cách hành chính, đặc biệt là đối với các chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật về cải cách hành chính do nước ngoài tài trợ. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác quản lý hợp tác quốc tế vẫn còn một số tồn tại, bất cập cần được tiếp tục cải tiến và giải quyết. Bộ Nội vụ xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình và kết quả sau 8 thực hiện Nghị định 03/1999/NĐ-CP về quản lý hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực cải cách hành chính.
 
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
 
1.     Đánh giá chung.
 
Tính đến tháng 6 năm 2007, đã huy động được tổng số trªn 30 chương trình, dự án từ 14 nhà tài trợ nước ngoài. Trong đó có 15 được thực hiện tại cấp Trung ương và 15 tại cấp địa phương. (có nhiều dự án được thực hiện 2 đến 3 giai đoạn). Các hỗ trợ của chương trình, dự án cải cách hành chính đã bám sát với nội dung của Chương trình Tổng thể Cải cách hành chính. (Xem Phụ lục đính kèm). Nhìn chung, các chương trình, dự án CCHC đã có những đóng góp và tác động tích cực cho việc thực hiện CCHC nói chung và cho chương trình CCHC của từng Bộ, ngành, địa phương nói riêng. Sự đóng góp và tác động của các hoạt động hợp tác được thể hiện rõ nét ở 2 cấp độ: Cấp độ thể chế, chính sách và cấp độ tác nghiệp. Trên cấp độ thể chế, chính sách, các dự án đã có những đóng góp và hỗ trợ tích cực trong việc xây dựng các Chiến lược, Chương trình hành động, Văn bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau phục vụ cho công tác cải cách hành chính. Trên cấp độ tác nghiệp, nhiều mô hình quản lý mới đã được thử nghiệm thành công và một số mô hình đã được thể chế hoá để áp dụng trên quy mô cả nước. Bên cạnh những kết quả hữu hình trên, hoạt động hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực cải cách hành chính còn giúp cho đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là những Bộ, ngành, địa phương trực tiếp thụ hưởng dự án nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có những thay đổi tích cực về mặt nhận thức, về phong cách và phương thức tổ chức thực hiện công việc, và góp phần cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của các cơ quan, đơn vị được thụ hưởng dự án,.v.v… Mặc dù còn có nhiều hạn chế song trong suốt thời gian qua, không có một dự án CCHC vi phạm các đường lối, chủ trương của đảng và Nhà nước hoặc để xảy ra những vấn đề đáng tiếc. Bên cạnh đó, việc thực hiện Nghị định 03 đã góp phần nâng cao vai trò và uy tín của Nhà nước ta trước cộng đồng tài trợ quốc tế. 
 
2. Những kết quả của công tác quản lý nhà nước về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực CCHC.
 
Theo Nghị định 03 thì Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) là cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý thống nhất các hoạt động hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực CCHC. Các cơ quan có nhiệm vụ phối hợp với Bộ Nội vụ để thực hiện công tác này là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành khác. Trong thời gian kể từ khi ban hành Nghị định 03 đến nay, có thể nhận thấy nổi lên những mặt làm được đáng ghi nhận trong công tác quản lý nhà nước đối với những lĩnh vực này, cụ thể như sau:
 
2.1. Những nỗ lực của Bộ Nội vụ.
 
Với vai trò là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này, Bộ Nội vụ đã tập trung làm tốt những việc như sau:
 
2.1.1. Thẩm định nội dung các chương trình, Dự án hỗ trợ kỹ thuật CCHC.
 
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Nội vụ đã được quy định tại khoản 6 Điều 5 Nghị định 03. Trong thời gian qua, Bộ Nội vụ đã phối hợp với Bộ KH&ĐT và các cơ quan quản lý ODA thẩm định trên 30 chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật CCHC, trong đó có những dự án mở rộng sang giai đoạn 2, giai đoạn 3. Nội dung thẩm định tập trung vào sự cần thiết, sự phù hợp của chương trình, dự án với đường lối, chính sách, chiến lược của Đảng và Nhà nước, chương trình tổng thể CCHC, mức độ ưu tiên của vấn đề hợp tác, hiệu quả kinh tế xã hội do chương trình dự án mang lại. Nhìn chung, công tác thẩm định được đánh giá là bảo đảm chất lượng về nội dung và yêu cầu về tiến độ.
 
2.1.2. Điều phối các hoạt động của dự án.
 
Công tác điều phối các hoạt động của các dự án CCHC được thực hiện khá tốt. Từ một thực trạng là trước kia các dự án CCHC hoạt động một cách đơn lẻ, độc lập, ít có sự chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm và thực tiễn với các dự án CCHC khác, nhưng đến nay, một mạng lưới chia sẻ kinh nghiệm đã được thiết lập, tạo cơ hội cho các dự án chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau. Tình trạng chồng chéo về nội dung thí điểm cũng dần được giải quyết. Những kết quả nghiên cứu và thí điểm đã được chia sẻ không chỉ giữa các dự án CCHC mà còn được chia sẻ với những Bộ, ngành, địa phương chưa có dự án CCHC thông qua các cuộc hội nghị thường niên và bán thường niên các dự án CCHC, các hội thảo chia sẻ kinh nghiệm và thực tiễn, và tờ thông tin cải cách hành chính.
 
2.1.3. Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện chương trình, dự án CCHC.
 
Trong giai đoạn đầu thực hiện Nghị định 03, với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, Bộ Nội vụ đã tiến hành tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn về xây dựng, thực hiện và quản lý dự án CCHC nhằm trang bị cho các Bộ, ngành, địa phương những kiến thức cơ bản phục vụ cho công tác quản lý và thực hiện dự án. Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ cũng trực tiếp hướng dẫn một số địa phương xây dựng văn kiện dự án cũng như tư vấn các thủ tục, quy trình xin thẩm định và phê duyệt dự án. Tuy nhiên, trong giai đoạn gần đây, một phần là do các dự án CCHC đã có kinh nghiệm trong công tác quản lý và thực hiện dự án, và một phần là do nguồn kinh phí hạn hẹp, Bộ Nội vụ chưa có điều kiện tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn về xây dựng và quản lý dự án để cập nhật kiến thức cho các thành viên mới của các ban quản lý dự án.
 
          2.1.4. Theo dõi, kiểm tra, đánh giá các dự án.
 
          Việc theo dõi các dự án được tiến hành thường xuyên thông qua hệ thống báo cáo 6 tháng và hàng năm. Bộ Nội vụ đã xây dựng một hệ thống theo dõi và báo cáo dự án để áp dụng chung cho các dự án CCHC. Tuy nhiên, chỉ có một số dự án áp dụng hệ thống này, còn một số dự án khác vẫn sử dụng phương pháp báo cáo truyền thống. Chất lượng của các báo cáo cũng khác nhau, một số báo cáo đảm bảo tốt về nội dung và chất lượng, nhưng vẫn còn nhiều báo cáo quá sơ sài, không đảm bảo chất lượng. Bên cạnh đó, Bộ Nội vụ cũng đã tổ chức các chuyến công tác thực tế tại các dự án để nắm bắt sâu hơn tình hình, tiến độ và chất lượng thực hiện dự án.
 
          Ngoài ra, năm 2003, Bộ Nội vụ đã tiến hành lựa chọn 10 dự án điển hình để đánh giá sâu các mô hình, thực tiễn tốt. Kết quả đánh giá được cộng đồng tài trợ đánh giá cao. Năm 2006, với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/024B, Bộ Nội vụ đã tiến hành đánh giá và tài liệu hoá 10 mô hình thí điểm thành công để có thể áp dụng rộng rãi trên quy mô cả nước.
 
          2.1.5. Vận động tài trợ và quan hệ đối tác với cộng đồng tài trợ.
 
Thông qua các Hội nghị thường niên và bán thường niên của Nhóm tư vấn tài trợ (Hội nghị CG), Bộ Nội vụ cùng với Bộ KH-ĐT và các cơ quan quản lý ODA đã có những đóng góp tích cực cho việc vận động tài trợ cho lĩnh vực CCHC. Ngoài ra, từ năm 2003, Diễn đàn đối tác về CCHC giữa Chính phủ và cộng đồng tài trợ đã góp phần đẩy mạnh chia sẻ thông tin và đối thoại giữa Chính phủ và cộng đồng tài trợ, trên cơ sở đó các bên hiểu rõ hơn về những vấn đề ưu tiên cần hỗ trợ. Tuy nhiên, việc quyết định tài trợ vẫn còn phụ thuộc nhiều vào ưu tiên của nhà tài trợ và sự năng động của các bộ, ngành, địa phương trong công tác huy động tài trợ.
 
Ngoài ra, Bộ Nội vụ cũng có nhiều đóng góp, tư vấn về mặt nội dung cho các Chương trình chiến lược quốc gia dành cho Việt Nam của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam nhằm giúp cho các nhà tài trợ có định hướng tốt hơn trong việc xác định những nội dung ưu tiên tài trợ.
 
2.1.6. Thông tin, tuyên truyền.
 
          Thông tin, tuyên truyền về cải cách hành chính thông qua bản tin hoạt động các dự án CCHC, tờ thông tin CCHC, và trang web về CCHC đã có những đóng góp thiết thực cho việc nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung về nội dung chương trình CCHC. Tuy nhiên, trong khuôn khổ quản lý hợp tác quốc tế về CCHC theo tinh thần Nghị định 03, nhiệm vụ này vẫn chưa được đặc biệt quan tâm.
 
2.2. Những nỗ lực của các Bộ, ngành khác có liên quan
 
Trong thời gian qua, các Bộ, ngành khác có liên quan, mà đặc biệt là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực CCHC, đặc biệt là công tác thẩm định về nội dung các dự án, chương trình CCHC và công tác phối hợp huy động tài trợ quốc tế cho lĩnh vực này.
 
II. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP VÀ NGUYÊN NHÂN.
 
Bên cạnh những thành tựu như đã đề cập ở trên, hoạt động hợp tác quốc tế về cải cách hành chính trong thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập như sau:
 
1. Thiếu tính chủ động trong quá trình hợp tác. Nhiều cơ quan, đơn vị và địa phương chưa thật sự chủ động trong khâu vận động tài trợ, mà thường thụ động chờ đối tác nước ngoài đặt vấn đề trước. Tình trạng này cũng đã bắt đầu được cải thiện nhưng chưa nhiều. Mặc dù một số dự án đã chủ động xác định những nội dung cần hỗ trợ, nhưng phần lớn các dự án vẫn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà tài trợ.
 
2. Tình trạng trùng lặp trong nội dung của các dự án. Do phụ thuộc nhiều vào những ưu tiên của nhà tài trợ cũng như nhu cầu của từng địa phương, vẫn còn nhiều sự trùng lặp về nội dung giữa các dự án CCHC. Có những nội dung nhiều dự án thực hiện một lúc trong khi có những nội dung không có dự án nào thí điểm. Tình trạng này đã được cải thiện trong thời gian gần đây do có mạng lưới kết nối và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm.
 
3. Không cân đối về số lượng dự án giữa trung ương và địa phương. Tuy đã có những ý kiến tư vấn của Bộ Nội vụ đối với việc lựa chọn các Bộ, ngành, địa phương làm đơn vị thụ hưởng dự án, nhưng phần lớn các dự án đều xuất phát từ những mối quan hệ sẵn có giữa nhà tài trợ với các Bộ, ngành, địa phương. Vì vậy, số lượng dự án được thực hiện tại cấp địa phương và cấp trung ương không cân đối, dự án tập trung nhiều hơn ở cấp trung ương. Ngoài ra, số lượng dự án CCHC chỉ tập trung vào 1 số Bộ, ngành.
 
4. Chưa đánh giá một cách đầy đủ các kết quả của dự án, và chưa tài liệu hoá các mô hình thí điểm thành công để nhân rộng. Mặc dù một số kết quả của các dự án đã được đánh giá, thẩm định và tài liệu hoá, nhưng mới chỉ dừng ở cấp dự án, và mới chỉ được áp dụng một cách không chính quy. Rất ít mô hình thí điểm thành công được chính thức thẩm định cấp nhà nước để có thể đưa vào áp dụng một cách thống nhất trên quy mô cả nước.
 
5. Chưa xây dựng được một hệ thống theo dõi, giám sát, đánh giá chuẩn để áp dụng thống nhất cho các dự án. Mặc dù mỗi dự án đều xây dựng một hệ thống theo dõi, giám sát, đánh giá riêng cho dự án mình, và mặc dù Bộ Nội vụ cũng đã xây dựng một hệ thống theo dõi, báo cáo chung cho các dự án, nhưng công tác theo dõi, giám sát, đánh giá dự án chưa mang lại kết quả tốt. Tiến độ thực hiện các dự án còn chậm; công tác báo cáo định kỳ của một số dự án chưa đạt yêu cầu.
 
6. Việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực này mới chỉ tập trung vào các chương trình, dự án mà chưa chú trọng đến các hoạt động hợp tác phi dự án. Trên thực tế, có nhiều Bộ, ngành, địa phương có những hoạt động hợp tác phi dự án liên quan đến lĩnh vực cải cách hành chính, như các chuyến nghiên cứu khảo sát nước ngoài, các hội nghị hội thảo quốc tế, các khoá đào tạo, tập huấn và các hoạt động hỗ trợ khác, nhưng các hoạt động này mang tính sự vụ, phân tán, xuất phát từ những mối quan hệ sẵn có của các đơn vị với các nhà tài trợ, vì vậy Bộ Nội vụ hầu như không quản lý được các hoạt động này.
 
7. Do có những hạn chế về ngân sách dành cho công tác này, và do phụ thuộc quá nhiều vào những hỗ trợ ngân sách của cộng đồng tài trợ thông qua dự án VIE/01/024B, việc tiến hành các chuyến công tác thực địa, việc tổ chức đánh giá định kỳ các kết quả dự án, việc tổ chức các hoạt động chia sẻ thông tin, kinh nghiệm về CCHC của Bộ Nội vụ còn bị động và gặp nhiều khó khăn.

Tìm kiếm