1. Cán bộ, công tác cán bộ và chính sách cán bộ của Đảng
Cán bộ - theo nghĩa chung nhất, là người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc người làm công tác chuyên môn, nhà khoa học hoặc công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị; hưởng lương và phụ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn kinh phí khác; được hình thành thông qua bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt và được phân công công tác... có trách nhiệm xây dựng, quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật. Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, ... nhằm phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ theo hướng bố trí số lượng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới. Đảng ta đã xác định đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.
Chính sách cán bộ là hệ thống các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; là công cụ và các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. Chính sách cán bộ bao gồm: chính sách đào tạo - bồi dưỡng, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, chính sách đảm bảo lợi ích và động viên tinh thần cán bộ. Chính sách cán bộ là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chính sách nói chung, chính sách cán bộ nói riêng do con người xây dựng nên - nghĩa là mang tính chủ quan, nhưng chính sách cán bộ khi được đưa vào thực tiễn cũng có tác động mạnh mẽ trở lại đến hoạt động của con người. Chính sách cán bộ đúng đắn sẽ mở đường, tạo động lực thúc đẩy tính tích cực, khả năng sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm của mỗi con người, nhưng cũng có thể kiềm hãm những hoạt động, làm thui chột tài năng, sáng tạo của cán bộ . Vì vậy, chất lượng cán bộ luôn gắn liền với hệ thống chính sách cán bộ. Chính sách cán bộ đúng đắn còn góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người sống trong bình đẳng, phát triển hài hòa.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ và chính sách cán bộ
Là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Người cho rằng “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy” Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” . Người cho rằng, cán bộ là cầu nối Đảng và Nhà nước với nhân dân, là người truyền đạt và tổ chức nhân dân thực thi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời nắm bắt và phản hồi thông tin từ phía nhân dân để Đảng và Nhà nước có căn cứ hoạch định, điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Người khẳng định và nhấn mạnh”…cán bộ là cái gốc của mọi công việc… huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” .
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là từ đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ và chính sách cán bộ, xác định rõ đây là khâu then chốt trong sự nghiệp phát triển đất nước. Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TW về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và ban hành Kết luận về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020. Qua mỗi kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc (ĐBTQ) của Đảng, quan điểm, tư tưởng đổi mới về công tác cán bộ và chính sách cán bộ ngày càng được thể hiện rõ hơn, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn.
Kế thừa và phát triển quan điểm, tư tưởng nhất quán, xuyên suốt đó, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ Đại hội XII nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ”. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII cũng chỉ rõ: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc về xây dựng Đảng; tiếp tục ban hành và thực hiện các quy chế, quy định trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; có quy chế về đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp... Tại cuộc họp ngày 08/12/2017 của Bộ Chính trị về thực hiện Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo, gắn với thực hiện Quy chế bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị khóa X, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Công tác cán bộ cực kỳ quan trọng, qua thực tiễn càng ngày càng thấy quan trọng, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, là gốc của mọi công việc, then chốt của then chốt. Bác Hồ từng nói, mọi việc thành bại đều do cán bộ, bố trí cán bộ đúng là khác, bố trí sai là khác, rất nguy hiểm. Do đó, qua mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng, như Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII chỉ rõ “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”.
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế... về công tác cán bộ, nổi bật là Nghị quyết số 03-NQ/TW về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Nghị quyết số 42-NQ/TW về “Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Kết luận số 37-KL/TW về “Tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 12-NQ/TW về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 04-NQ/TW của Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 98-QĐ/TW về luân chuyển cán bộ; Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kế hoạch số 10-KH/TW thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 132/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW và Kế hoạch số 10-KH/TW của Bộ Chính trị thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW...
3. Những nội dung cơ bản trong chính sách cán bộ hiện nay
Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác cán bộ và chính sách cán bộ; là Đại hội tổng kết 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới và việc thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XI của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ những kết quả quan trọng về các nội dung cơ bản trong công tác cán bộ và chính sách cán bộ là: “Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn. Thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, được dư luận đồng tình, có tác dụng, hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ về cơ bản đã thực hiện theo quy hoạch. Tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định và thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm”.
Các văn bản thực định và công trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn thời gian qua cho thấy, chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng sau đây trong công tác cán bộ và chính sách cán bộ:
Thứ nhất, quán triệt văn kiện các kỳ Đại hội ĐBTQ và chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác cán bộ, nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm và giải pháp lớn về năm nội dung (năm khâu) của công tác cán bộ đã được thể chế hóa, cụ thể hóa bằng các quy chế, quy định, quy trình và hướng dẫn. Nhờ có chính sách cán bộ phù hợp và đúng đắn, công tác cán bộ đã đạt được những kết quả tích cực, quan trọng, khắc phục được những hạn chế, bất cập và từng bước đi vào nền nếp, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, chặt chẽ hơn. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Năm nội dung trong chính sách cán bộ, bao gồm đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; luân chuyển cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ được quan tâm xây dựng nội dung cho đến tổ chức thực hiện và thanh tra, kiểm tra, đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện và được Đảng ta đánh giá là “ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp” .
Thứ hai, công tác quy hoạch cán bộ, nhất là quy hoạch cán bộ cấp chiến lược được quan tâm chỉ đạo, triển khai tích cực và gắn với nhiệm vụ chính trị, lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cấp trên, thực hiện quy hoạch “mở” và “động”; xây dựng quy hoạch cấp uỷ làm cơ sở quy hoạch các chức danh cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân... Quy hoạch là định hướng, phát hiện nguồn, là đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển để chuẩn bị nguồn cán bộ cho nhiều nhiệm kỳ sau, do đó phải phân biệt với việc làm nhân sự cho từng nhiệm kỳ. Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ thì cán bộ cấp chiến lược là đội ngũ lãnh đạo các cơ quan Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Cán bộ cấp chiến lược là lực lượng tinh hoa của nguồn nhân lực xã hội, có trí tuệ, năng lực và phẩm chất vượt trội, đại diện cho tinh hoa dân tộc, là nguyên khí quốc gia; có đủ tài, tâm, tầm dẫn dắt đất nước phát triển bằng tiềm năng, điều kiện của đất nước; có khả năng kiểm soát và gây ảnh hưởng đến các nguồn lực lớn trong xã hội. Hiện nay, cán bộ cấp chiến lược khoảng 600 người, gồm các cán bộ trong Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các bộ trưởng, trưởng các ngành, thứ trưởng, phó trưởng các ngành, bí thư và phó bí tỉnh uỷ, chủ tịch UBND và HĐND cấp tỉnh. Trong bộ máy nhà nước, cán bộ cấp chiến lược ở những vị trí cao, có khả năng vận dụng pháp luật, cơ chế chính sách, cũng như các mối quan hệ để đóng góp sức mình vào sự phát triển chung của đất nước. Tại Nghị quyết này, Đảng ta khẳng định xây dựng và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược là công việc hệ trọng, then chốt của Đảng.
Thứ ba, về công tác luân chuyển cán bộ. Luân chuyển cán bộ được Đảng ta xác định là biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ một cách bài bản, toàn diện đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý, đặc biệt là cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược. Vì vậy, đồng thời với việc chuẩn bị đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thì Đảng phải chuẩn bị chiến lược cán bộ, phải xây dựng quy hoạch cán bộ. Trong nhiệm kỳ 2011-2016, đã luân chuyển 18.840 lượt cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp; đặc biệt vào đầu năm 2014, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quyết định luân chuyển 44 cán bộ lãnh đạo. trong đó có 25 người được chỉ định tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức phó bí thư các tỉnh ủy, thành ủy; 19 người giữ chức phó chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại thời điểm thực hiện luân chuyển có 02 Ủy viên Trung ương Đảng, 19 thứ trưởng và tương đương, 25 cục trưởng, vụ trưởng và tương đương, có 03 cán bộ nữ. Toàn bộ cán bộ luân chuyển đều trong quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt, trong đó có 22 người được quy hoạch tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.
Thứ tư, về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được tăng cường với nhiều hình thức đa dạng hơn; nội dung, phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới, kết hợp giữa học lý luận với nâng cao kỹ năng thực hành. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Đảng ta xác định là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tích cực trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ; hướng tới mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn. Đào tạo, bồi dưỡng tập trung trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện công việc cho cán bộ; trong đó, chú trọng cung cấp những kiến thức, lý luận cơ bản, trang bị kỹ năng, cách thức hoạt động thực thi công việc, giáo dục thái độ thực hiện công việc thể hiện sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của cán bộ.
Trong thời gian qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp, các ngành, các địa phương đã có chuyển biến tích cực, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức (nhất là cán bộ chủ chốt) ở các cơ quan, đơn vị, địa phương có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng động và sáng tạo; tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trình độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao, thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đóng góp quan trọng trong việc đạt được những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội, đưa nước ta gia nhập các nước đang phát triển, có thu nhập trung bình thấp, bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
Thứ năm, việc quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ được thực hiện nghiêm túc theo hướng công khai, minh bạch, từng bước khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, thiếu khách quan khi xem xét, quyết định về công tác cán bộ. Việc quy định cán bộ, đảng viên đang công tác ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú; thực hiện bầu cử có số dư; lấy phiếu tín nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc giới thiệu bầu cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp... là những cách làm mới thể hiện tính dân chủ, công khai trong công tác cán bộ. Việc phân cấp quản lý cán bộ được thực hiện hợp lý, hiệu quả hơn; kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ được tăng cường.
Có thể khẳng định, công tác cán bộ thời gian qua luôn bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của Đảng về chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới. Nội dung, phương pháp, cách làm có nhiều đổi mới và tiến bộ ở từng khâu và cả năm khâu, từng việc phù hợp với từng giai đoạn. Trong thực hiện công tác cán bộ đã gắn kết các khâu để tạo ra sự đổi mới đồng bộ. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy định, quy chế, hướng dẫn, mang lại nhiều chuyển biến tích cực và có hiệu quả trong thực tiễn. Gần đây, Bộ Chính trị đã họp, cho ý kiến về kết quả kiểm tra của 5 Đoàn kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về thực hiện Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo, gắn với thực hiện Quy chế bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử ban hành kèm theo Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị khóa X. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra của 5 Đoàn công tác tại 10 địa phương và 5 cơ quan Trung ương cho thấy, các cấp ủy, tổ chức Đảng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, kết luận, quy định và hướng dẫn của Trung ương về công tác quy hoạch, luân chuyển, đào tạo bồi dưỡng, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu cán bộ ứng cử.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi bật về công tác cán bộ và chính sách cán bộ như nêu trên, Báo cáo chính trị tại Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt Đảng thẳng thắn chỉ rõ đây là một trong những nguyên nhân chính gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: “Việc đổi mới công tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được tập trung xây dựng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mưu, tư vấn cấp chiến lược. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chưa bảo đảm sự liên thông, gắn kết. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo và cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, cán bộ trẻ, việc luân chuyển bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo không là người địa phương thực hiện chưa đạt yêu cầu”.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ ra. Đó là, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược chưa được xây dựng một cách cơ bản; một bộ phận cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh chính trị, ngại rèn luyện. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc... Quy hoạch cán bộ vẫn còn thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm “động” và “mở”. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn quy hoạch theo chức danh… Trong khi đó, việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội, gây mất niềm tin của nhân dân. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”…
Xét về tổng thể, việc thực hiện chính sách cán bộ nói chung và từng nội dung chính sách cán bộ nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đạt được mục tiêu đề ra và chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Cụ thể là: Việc nhận xét, đánh giá cán bộ quan nhiều năm dù được xác định là khâu yếu nhưng vẫn chậm được khắc phục; chưa lấy kết quả thực hiện các nhiệm vụ được giao làm thước đo chủ yếu để đánh giá. Công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ chất lượng chưa đồng đều, chưa có tầm nhìn xa và chưa bảo đảm cơ cấu 3 độ tuổi; quy hoạch cán bộ chưa thực sự gắn với đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ; chưa có sự liên thông giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa phương với Trung ương và giữa các ngành, các lĩnh vực công tác với nhau. Việc lựa chọn địa bàn, chức danh luân chuyển trong một số trường hợp còn bất hợp lý, thậm chí còn trái ngành, trái nghề, vừa không đáp ứng được yêu cầu đào tạo, vừa hạn chế sự đóng góp của cán bộ luân chuyển. Cơ chế quản lý, giám sát và chế độ chính sách đối với cán bộ luân chuyển chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ sau luân chuyển có trường hợp còn bất cập, thiếu chính xác...
4. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách cán bộ
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, từ chủ trương, phương hướng đổi mới chính sách cán bộ của Đảng, thời gian tới chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, có đầy đủ phẩm chất, năng lực và coi đó là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng và sự nghiệp cách mạng. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nhiệm vụ chính trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải có chính sách cán bộ đúng đắn để xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, chúng ta cần ưu tiên tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế, những người trực tiếp tham gia hoạch định và quyết định cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách lược, chủ trương lớn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược bảo vệ Tổ quốc; lực lượng chủ chốt lãnh đạo, chỉ đạo để hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong xu thế phát triển triển nhanh của kinh tế tri thức, kinh tế số, sự phát triển của khoa học - công nghệ và sự cạnh tranh quyết liệt, việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là yêu cầu rất cấp thiết.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, cấp ủy Đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ theo các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đổi mới cơ chế, chính sách. Thông qua hoạt động thực tiễn để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ.
Hai là, quán triệt và nghiêm túc thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng, khâu trọng yếu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Đảng phải xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt cho các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ”. Vì thế, Đảng phải trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, từ việc định ra đường lối, chính sách cán bộ đến việc quyết định bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, chuẩn bị cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua các tổ chức đảng để thực hiện đường lối, chính sách cán bộ. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một việc quan trọng bậc nhất trong công tác lãnh đạo của Đảng.
Thế kỷ XXI đã khởi đầu với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, với toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng “đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”; phát triển con người và coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Cán bộ của thời kỳ hội nhập quốc tế phải là người trung thực, tôn trọng luật pháp quốc tế; phát triển kinh tế thị trường yêu cầu cán bộ “phải đi trước thiên hạ”, một lòng một dạ cống hiến cho quê hương, đất nước. nền công vụ hiện đại thường gắn với các giá trị công vụ to lớn như: liêm chính, trung thực, khách quan, trung thành, tận tụy. Những cán bộ chiến lược thực sự phải là những tấm gương về phụng sự tổ quốc, về đức hy sinh quyền lợi cá nhân cho sự nghiệp chung xây dựng và bảo vệ đất nước.
Ba là, ban hành và thực hiện nghiêm các quy định, quy chế, cơ chế về cán bộ và công tác cán bộ.
Chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ phải được thể chế, cụ thể hóa thành chính sách cán bộ, thông qua các quy chế, quy định, quy trình bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ, chặt chẽ. Theo hướng này, cần tiếp tục đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức; xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ định hướng xây dựng và hoàn thiện chính sách cán bộ trong thời gian tới là: “Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp...”.
Cần nhấn mạnh rằng, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII đã nhấn mạnh “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục”. Vì vậy, để hoàn thiện chính sách cán bộ theo tinh thần Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII thì phải xây dựng cho được tiêu chí để đánh giá cán bộ. Hằng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công việc thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân mà có đánh giá khách quan trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ; chống địa phương, cục bộ mà đánh giá công chức thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học.
Thực tiễn cho thấy, so với yêu cầu thì công tác đánh giá cán bộ hiện vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập; trong đó những bất cập sau đây là lớn nhất, cần được ưu tiên nghiên cứu, hoàn thiện:
a) Đánh giá cán bộ, công chức, viên chức vẫn mang nặng tính chủ quan, chưa phản ánh chính xác, đầy đủ về chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của công chức, viên chức;
b) Quy định về tiêu chí đánh giá tại Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 88/2017/NĐ-CP sửa đổi Nghị định số 56/2015/NĐ-CP về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức (được hợp nhất tại văn bản số 02/VBHN-BNV ngày 09/11/2017) vẫn còn chung chung, khó phân định được ranh giới giữa các mức độ đánh giá, đặc biệt rất khó xác định thế nào là “hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực”, gây lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện;
c) Đánh giá cán bộ, công chức gắn trực tiếp đến sinh mạng chính trị của mỗi người, nhưng các quy định chưa đầy đủ, toàn diện, dẫn đến có tình trạng công chức có đơn yêu cầu người đứng đầu đơn vị thực hiện đánh giá, phân loại lại công chức sau khi nhận được thông báo đánh giá công chức hàng năm. Tuy nhiên, Luật cán bộ, công chức năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định về trình tự thủ tục cũng như về việc kết quả đánh giá lại công chức. Hoặc theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 56/2015/NĐ-CP thì cán bộ, công chức có quyền khiếu nại về kết quả đánh giá công chức theo quy định của pháp luật về khiếu nại; tuy nhiên, Luật khiếu nại hiện hành lại không quy định cán bộ, công chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính trong nội bộ cơ quan nhà nước. Do đó, hiện nay, chưa có quy định cụ thể để thực hiện quyền khiếu nại về kết quả đánh giá công chức của cán bộ, công chức;
d) Các nội dung quy định đánh giá công chức vẫn còn nặng về định tính, thiếu định lượng, chưa gắn chặt với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, và quan trọng hơn nữa là chưa đánh giá được hiệu quả thực thi công vụ, dẫn đến khó khăn cho quá trình đánh giá và xếp loại công chức. Nhiều chỉ tiêu đánh giá chưa phản ánh được thực chất của quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, nhất là trong bối cảnh hiện nay đã và đang triển khai các vị trí việc làm thì yêu cầu lượng hóa các chỉ tiêu đánh giá để tính điểm cho công chức càng trở nên khó khăn hơn;
đ) Từng ngành, từng lĩnh vực chưa cụ thể được một cách đầy đủ các tiêu chí để đánh giá cán bộ, công chức cho phù hợp với từng vị trí, từng nhóm công việc (nhất là những lĩnh vực, công việc đặc thù) nên khó tránh khỏi được việc đánh giá công chức không sát với thực tế, dẫn đến thiếu công bằng và không có tác dụng động viên khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ; phê bình, kiểm điểm, thậm chí phải xử lý, loại bỏ những trường hợp chây lười, yếu kém trong công tác, vi phạm phẩm chất đạo đức.
Giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này là phải quán triệt và triển khai có hiệu quả chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh việc đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù hợp, có cơ chế để kịp thời thay thế, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. Văn kiện cũng khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XI) về xây dựng Đảng, trong đó quy định việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Ðảng, Nhà nước, đoàn thể. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác... Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã xác định một trong các giải pháp quan trọng để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ là: “Ðổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị”.
Bốn là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.
Đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chiến lược nói riêng là lực lượng nòng cốt trong xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách; đồng thời là lực lượng chỉ đạo, hướng dẫn và trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; sau khi có đường lối, chủ trương đúng thì công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ giữ vai trò quyết định. Bởi vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược có số lượng, chất lượng, cơ cấu phù hợp, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng là vấn đề có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đổi mới quan điểm, phương pháp, quy trình đánh giá cán bộ, bảo đảm đánh giá công khai, minh bạch, trung thực, khách quan, toàn diện, lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ và uy tín trong cơ quan, đơn vị làm thước đo chủ yếu. Đổi mới công tác quy hoạch, tạo nguồn cán bộ; đối với cán bộ diện quy hoạch lâu dài, cần lựa chọn nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch là những người ưu tú trong công nhân và những người lao động, công chức trẻ, sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp, trong lực lượng vũ trang. Định kỳ lựa chọn bổ sung cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đưa vào quy hoạch.
Xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược làm cơ sở cho việc phát hiện, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng. Tạo sự thống nhất cao về nhận thức, hành động của các cấp, ngành và nhân dân về luân chuyển cán bộ; thực hiện luân chuyển trên cơ sở quy hoạch cán bộ. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa luân chuyển, điều động và tăng cường cán bộ. Kết hợp hài hòa giữa luân chuyển với ổn định đội ngũ cán bộ. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với cán bộ luân chuyển, tạo điều kiện để cán bộ luân chuyển hoàn thành tốt nhiệm vụ. Phát hiện kịp thời các nhân tố mới, có triển vọng, bồi dưỡng và đào tạo hợp lý, không để lãng phí cán bộ, không để chảy máu chất xám, sao cho ngày càng có nhiều cán bộ chiến lược tốt, cán bộ chiến lược giỏi, trung thực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có bản lĩnh sáng tạo, đổi mới, bứt phá để phát triển. Cải cách căn bản chính sách tiền lương, bảo đảm đãi ngộ xứng đáng với cống hiến của mỗi người, tạo cơ hội, môi trường, điều kiện cho cán bộ phát triển.
Về chính sách quy hoạch, tuyển chọn cán bộ: đội ngũ cán bộ chiến lược cần có quy hoạch cụ thể đáp ứng theo từng thời kỳ thể hiện trên chiến lược phát triển nguồn nhân lực chung và tập trung vào nhóm cán bộ cấp chiến lược. Đội ngũ này cần được quy hoạch theo nhóm độ tuổi, theo yêu cầu của các ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn. Nhóm cán bộ quy hoạch cấp chiến lược cần quan tâm bốn yếu tố cơ bản như, có kiến thức lý luận cơ bản về định hướng chiến lược, về hợp tác quốc tế, có năng lực thực thi công vụ với hiệu quả cao, vượt trội, có đạo đức của người lãnh đạo cấp cao trong công vụ, có tiếng Anh cơ bản đáp ứng yêu cầu của giao trong môi trường làm việc quốc tế và ưu tiến đối với lớp trẻ.
Tuyển chọn cán bộ chiến lược là một hoạt động quan trọng đòi hỏi phải đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng theo những tiêu chí cụ thể đối với cán bộ cấp chiến lược. Tuyển chọn cán bộ cấp chiến lược cần chú trọng các yêu cầu: phải có “tâm” với khát vọng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Không vì lợi ích cá nhân mà làm những việc phương hại đến tập thể, với nhân dân, Tổ quốc. Phải có “tầm” với nhãn quan rộng lớn, năng lực dự báo xem xét, phân tích tình hình trong và ngoài nước, nắm bắt tình hình, đưa ra chiến lược, tầm nhìn phù hợp đưa đất nước từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Xác định lấy phát triển kinh tế, hiệu quả kinh tế làm mục tiêu đi lên, lấy chính trị làm điểm tựa vững vàng, tập trung sức mạnh dân tộc vững bước đi lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu, bốn biển. Phải có “tài” với năng lực điều hành dẫn dắt thực thi chiến lược, hướng tới tầm nhìn, rèn luyện cá nhân theo “Tứ thư lãnh đạo” của người xưa, đó là thuật dụng ngôn, thuật xử thế, thuật quản trị và thuật lãnh đạo.
Trong tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, chúng ta có thể tham khảo một số kinh nghiệm tốt của các nước có nền công vụ phát triển về tuyển chọn cán bộ. Ví dụ, Cộng hòa Singapore đã thực hiện chính sách vườn ươm (Sping Seeds Capital) nhằm đầu tư cho những người có đức, có tài từ khi còn trẻ, khi còn là sinh viên để tìm kiếm phát triển tài năng cho đất nước. Nhà nước đầu tư và có những chính sách chế độ thu hút, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng phát triển đội ngũ những người tài năng cho đất nước, cho công vụ. Một ví dục khác là Vương quốc Anh có chương trình phát triển thăng tiến nhanh (Fast Streamline Development Programme) nhằm thu hút tuyển chọn những người có tài có phẩm chất tốt vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng trở thành những người lãnh đạo, quản lý tốt cho đất nước.
Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: đối với đào tạo, bồi dưỡng trong nước, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ được tuyển chọn để tăng cường năng lực cần có đáp ứng yêu cầu của công vụ. Đào tạo, bồi dưỡng là tạo cơ hội cho cán bộ học tập trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để cán bộ thực thi công vụ tốt hơn hiệu quả hơn. Đào tạo, bồi dưỡng trong nước với các khóa học xuất phát từ nhu cầu đào tạo, nhu cầu tăng cường năng lực thực thi công vụ của cán bộ trong môi trường thực tiễn. Nhóm cán bộ chiến lược được đào tạo, bồi dưỡng theo một chương trình được thiết kế riêng, chia thành các học phần ứng với các kỳ học tập trung ngắn hạn thực hiện từng nhóm mục tiêu cụ thể về phát triển năng lực thực thi công vụ. Cách thức đào tạo, bồi dưỡng trong nước là thực hiện các dự án để thực thi công vụ, là tổ chức thực hiện các diễn đàn cho lãnh đạo, quản lý và thảo luận tranh luận các vấn đề chiến lược, quốc tế.
Đối với đào tạo, bồi dưỡng ngoài nước, cần hướng tới các mục tiêu chính là: thứ nhất, cập nhật bổ sung kiến thức mới cần hoàn thiện trong bối cảnh thực thi công vụ thời đại số, công vụ số, Chính phủ số, nhất là những kiến thức cơ bản về luật pháp quốc tế và văn hóa; thứ hai, tăng cường các kỹ năng thực thi công vụ trong môi trường làm việc quốc tế, như các kỹ năng về xử lý tình huống, làm việc nhóm trong môi trường làm việc quốc tế; thứ ba, hoàn thiện trình độ, năng lực kỹ năng sử dụng các ngôn ngữ quốc tế, chủ yếu là tiếng Anh đảm bảo có thể giao tiếp làm việc được.
Cần hình thành một Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cao cấp để điều phối hoạt tuyển chọn, động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chiến lược cho nhà nước, tập trung sự chỉ đạo thực hiện và các nguồn kinh phí. Trong đào tạo, bồi dưỡng cần coi trọng tự đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ. Cần chú trọng phát triển một số chính sách nhất định nhằm khuyến khích cán bộ tự đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực thi công vụ.
Về chính sách đánh giá, khen thưởng kỷ luật cán bộ: Đánh giá là một hoạt động quan trọng để đưa ra những nhân xét đúng đắn về cán bộ trong thực thi công vụ về trình độ, kỹ năng, phẩm chất nhằm thực hiện chính sách đối với cán bộ và phát triển cán bộ. Ngoài những yêu cầu đánh giá chung đối với cán bộ cần có những quy định đối với đánh giá cán bộ chiến lược đảm bảo luồng chảy của đề nghị cán bộ quan trọng này. Đánh giá thực hiện theo yêu cầu lấy hiệu quả thực thi công vụ làm thước đo chính và thực hiện theo chế độ thủ trưởng và quy chế quản lý cán bộ. Cần thiết tham khảo cách thức quản lý đánh giá cán bộ của một số nước có nền công vụ tiên tiến trên thế giới.
Về chính sách khen thưởng, kỷ luật: khen thưởng, kỷ luật là nội dung quan trọng trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ chiến lược. Hoàn thiện chủ trương xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ chiến lược cần chú trọng hoàn thiện các quyết định về khen thưởng, kỷ luật nhằm động viên kịp thời, tạo động lực to lớn cho cán bộ thực thi công vụ ngày càng tốt hơn, đồng thời cũng sàng lọc, chấn chỉnh, định hướng, xử lý những vi phạm đáng tiếc xảy ra. Khen thưởng hướng tới động viên, khuyến khích tạo động lực, thúc đẩy cán bộ thực thi công vụ tốt hơn, phục vụ nhân dân, nhà nước tốt hơn, thì kỷ luật hướng tới răn đe, chỉ ra sai phạm, sàng lọc, giáo dục nêu cao kỉ cương phép nước trong thực thi công vụ, loại bỏ những phần tử không còn phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của công vụ. Trong thời gian tới, cần xây dựng luật về đạo đức công vụ, nhằm hoàn thiện cách thức ứng xử của cán bộ trong thực thi công vụ phù hợp với các giá trị yêu cầu về đạo đức công vụ.
Sớm xây dựng chiến lược tiến cử, trọng dụng nhân tài. Cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu đối với việc tiến cử, trọng dụng nhân tài; có cơ chế để nhân dân tiến cử hiền tài. Có chế độ thi tuyển khách quan, bình đẳng để lựa chọn được những người thật sự có đức, có tài phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
Về chính sách đãi ngộ, trọng dụng, khen thưởng và tôn vinh cán bộ: chính sách này phải phù hợp với chủ trương, quan điểm công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước; với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt Nam; chiến lược, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Chính sách đó phải là một bộ phận trong tổng thể chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất trong toàn hệ thống pháp luật, việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách đãi ngộ, trọng dụng, khen thưởng và tôn vinh cán bộ phải xuất phát từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, trước hết là Chiến lược công tác cán bộ của Đảng và Luật cán bộ, công chức, Luật Viên chức.
Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ là sự đầu tư của Đảng, Nhà nước và xã hội nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ có chất lượng cao, thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, quản lý, điều hành ở tầm vĩ mô và vi mô, có năng lực dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Đó là sự đầu tư cho sự phát triển và trường tồn của Tổ quốc, dân tộc, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển một chế độ xã hội dân chủ, công bằng và văn minh ở Việt Nam. Chính sách đó phải thể hiện trách nhiệm, thái độ, là sự trân trọng ghi nhận của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với những công lao, cống hiến, đóng góp cho sự thúc đẩy phát triển xã hội của cán bộ đối với Tổ quốc và nhân dân; phải đảm bảo tính toàn diện, liên tục và nhất quán; chú trọng kết hợp hài hòa giữa đãi ngộ vật chất và tinh thần; tương xứng với công lao, cống hiến và đóng góp của cán bộ; đảm bảo cho cán bộ toàn tâm, toàn ý làm việc, cống hiến bằng chính nghề nghiệp, năng lực và tâm huyết của họ. Chính sách đãi ngộ, trọng dụng, tôn vinh và khen thưởng cán bộ phải gắn liền với chính sách kỷ luật của Nhà nước, cán bộ vi phạm kỷ luật, kỷ cương, đạo đức công vụ, có hành vi chống đối Đảng, Nhà nước và nhân dân thì phải xử lý nghiêm khắc theo Điều lệ Đảng và pháp luật.
Chính sách cán bộ giữ vai trò quan trọng trong chiến lược của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ, đồng thời có tác dụng thúc đẩy và giúp cho chính sách kinh tế - xã hội đạt được mục tiêu. Cán bộ, công chức, viên chức là những người trực tiếp gánh vác trách nhiệm nặng nề. Hàng ngày họ phải giải quyết rất nhiều công việc ở cơ quan, đơn vị, phải luôn vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống, công tác và những hạn chế của bản thân để tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Những thành công và không thành công trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cho thấy, cùng với việc giáo dục chính trị, tư tưởng còn phải thường xuyên xấy dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách cán bộ, không chỉ là chính sách của Trung ương mà còn là cả sự vận dụng vào các cơ quan, tổ chức cụ thể cho hợp tình, hợp lý, gắn với trách nhiệm, hiệu quả công tác của cán bộ, công chức, viên chức và mức độ phát triển kinh tế - xã hội của từng cơ quan, tổ chức. Trong đó, chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần là yếu tố rất quan trọng tạo ra động lực làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Đời sống và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức còn thấp, nếu giải quyết được hài hòa lợi ích vật chất và tinh thần cho họ thông qua các chính sách, chế độ, thì cán bộ, công chức, viên chức mới yên tâm tập trung cho công tác, giảm bớt sự ràng buộc, phụ thuộc vào kinh tế gia đình. Chính sách đãi ngộ vật chất, động viên tinh thần một cách hợp lý và thỏa đáng là một nhân tố quan trọng góp phần làm trong sạch đội ngũ, giúp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không tham nhũng, lãng phí tiền bạc và công sức của nhân dân. Đó cũng là nhân tố làm tăng cường ý thức trong dân, phục vụ dân, bởi họ hiểu chính sách, chế độ mà họ được hưởng là tiền của công sức của nhân dân đóng góp. Chính sách đãi ngộ về vật chất và động viên tinh thần còn là yếu tố quan trọng để đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài trong và ngoài Đảng tham gia các hoạt động ở cơ sở, để họ đóng góp vào công việc chung của đất nước.
Gắn liền với chính sách đãi ngộ là chính sách sử dụng và quản lý cán bộ. Đó là việc bố trí và sử dụng cán bộ đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường của cán bộ, công chức, viên chức; là việc đề bạt, bãi nhiệm, đúng người, đúng việc, đúng lúc. Việc thực hiện chính sách cán bộ phải gắn với chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cấp ủy phải nắm chắc từng cán bộ, công chức, viên chức cả về đức, tài. Trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng đúng mức những cán bộ có thành tích, đồng thời phải xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy chế cơ quan, đơn vị. Có như vậy, chính sách cán bộ mới thực sự là động lực thúc đẩy tính tích cực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Chính sách cán bộ còn là yếu tố rất quan trọng trong thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu học tập vươn lên. Trong thời đại ngày nay, việc học tập, học tập suốt đời, người người học tập, gia đình học tập, xã hội học tập vì sự tồn tại, phát triển của cá nhân, gia đình, của cộng đồng là một tất yếu của xã hội tiến bộ. Đối với người cán bộ, công chức, viên chức, điều đó càng là đương nhiên và là điều bắt buộc, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy, nhiều cán bộ có hạn chế về trình độ học vấn và năng lực chuyên môn nhưng lại ngại học tập, lười học, không chịu phấn đấu vươn lên… Điều đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ chính sách cán bộ chưa thỏa đáng, hợp lý.
Tóm lại, xây dựng và thực hiện tốt chính sách cán bộ chính là việc làm cho cán bộ, công chức, viên chức có đủ năng lực tổ chức thực hiện hoàn thành chức trách của mình, đủ năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với nhân dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp nhân dân./.
NGƯT. PGS. TS. Triệu Văn Cường - Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Nguồn: tcnn.vn