Gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với Chỉ thị 05-CT/TW để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

16/11/2018 14:26
  • Print
  • Lượt xem: 8478

Trong gần 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng, Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững vị trí người lãnh đạo, đội tiền phong, xứng đáng là danh dự, là lương tâm của dân tộc. Đồng thời, Cương lĩnh, Điều lệ, Văn kiện, các Chỉ thị, Nghị quyết, Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng qua 12 kỳ Đại hội đều nhất quán chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này.


Ảnh minh họa

1. Hồ Chí Minh với xây dựng và chỉnh đốn Đảng

Vận dụng một cách sáng tạo những luận điểm của học thuyết Mác-Lênin về Đảng kiểu mới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền”[1] và “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”[2]. Đồng thời, Người chú trọng vấn đề rèn luyện đạo đức của người cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, với yêu cầu cụ thể: “Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”[3].

Sau đó, khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng ta đã từ hoạt động bí mật trở thành một Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giữ vững, bảo vệ chính quyền cách mạng và xây dựng nền dân chủ cộng hòa. Với bước chuyển căn bản đó, với nhiệm vụ mới “sắp đặt, giữ gìn, kiến thiết” nước nhà, Hồ Chí Minh căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng: “Chúng ta phải thật thà thừa nhận rằng kinh nghiệm chúng ta còn ít, tài năng chúng ta còn kém, mà công việc thì nhiều: nào quân sự, nào ngoại giao, nào tài chính…, trăm đầu nghìn mối, đều những việc mới lạ cho chúng ta. Lại thêm nguy hiểm ngoại xâm và tình hình nội trị”[4], cho nên, trước những thử thách mới, với vị thế và quyền lực mới, Đảng cũng đồng thời đứng trước những vấn đề mới: đó là làm thế nào để quyền lực cùng những đặc quyền, đặc lợi của nó không làm tha hóa Đảng, không làm biến chất, suy thoái đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Anh hùng và Chiến sĩ thi đua nông nghiệp năm 1957 

Từ những tiềm ẩn về nguy cơ thoái hóa, biến chất của Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài mà phải luôn phấn đấu, rèn luyện để trở thành một Đảng thật trong sạch, vững mạnh trên cơ sở “lấy dân làm gốc”. Nhận thức được vị trí và vai trò của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc, đặc biệt là để Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định: Ngoài những yêu cầu nghiêm ngặt của công tác xây dựng Đảng như thực hiện tập trung dân chủ, nghiêm túc thực hiện phê bình và tự phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, rèn luyện đạo đức cách mạng, chăm lo bồi dưỡng cán bộ, v.v.. Đảng đồng thời cũng phải thường xuyên sáng tạo, tự chỉnh đốn và tự đổi mới.

Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo cho thấy, cùng với mỗi bước ngoặt của cách mạng, tình hình và nhiệm vụ của Đảng cũng có sự thay đổi. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, công tác xây dựng Đảng về mọi mặt: chỉnh đốn tổ chức, tăng cường lực lượng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, giữ vững lập trường tư tưởng, v.v.. của một Đảng cách mạng càng trở nên bức thiết và thường xuyên. Đó không chỉ là yêu cầu khách quan của thời cuộc, đó còn là nhu cầu tự thân của Đảng, nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo, sự tiền phong của Đảng. Cũng theo Hồ Chí Minh, khi đã trở thành Đảng cầm quyền, để định ra đường lối đúng, quyết sách đúng, Đảng phải thường xuyên xây dựng, củng cố và tăng cường chỉnh đốn lại nội bộ. Bởi rằng, dù là một đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và dân tộc, song không phải chỉ như vậy là Đảng đã trở thành vĩ đại. Biện pháp khoa học nhất, hữu hiệu nhất, thường xuyên nhất để Đảng luôn là đội tiền phong, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử “bộ chỉ huy tối cao của dân tộc” là “phải củng cố Đảng”, “chỉnh đốn lại Đảng” trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và rèn luyện đạo đức.

Thực tế đã cho thấy, khi được giao trọng trách giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng và các cơ quan công quyền, với vị thế mới, quyền lực mới, đã có một bộ phận “cán bộ ta lập trường chưa vững chắc, tư tưởng chưa thông suốt”, hoặc vô tình, hoặc suy thoái đã sa vào chủ nghĩa cá nhân với các biểu hiện trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, thậm chí dùng pháp công để báo thù tư; tự mãn, tự túc, hiếu danh, hiếu vị, địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp hòi, óc lãnh tụ; mắc các bệnh hữu danh vô thực, cận thị, cá nhân, tị nạnh, xu nịnh, a dua, tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu,v.v.. Những biểu hiện suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên đó đã biến “những nghị quyết và chỉ thị Đảng” thành những “lời nói suông”, biến những người lẽ ra là “công bộc của dân”, “đày tớ cho nhân dân” trở thành “cha mẹ dân”, "quan cách mạng" gây tổn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng. Những việc làm của họ “là trái với lợi ích của Đảng”, trái với 12 điều quy định về tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản, trái với tinh thần chí công vô tư nên rất cần “phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa”, để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh. Theo Hồ Chí Minh, những khuyết điểm, những tồn tại đó, dù được biểu hiện dưới hình thức nào, ở đâu, thì đó cũng là tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phong kiến còn rơi rớt lại, sẽ đưa những người đồng chí ấy đến chỗ “tự do hành động”, "trái với tổ chức và kỷ luật của Đảng", dần trở thành là những con sâu mọt trong Đảng, kẻ thù của nhân dân và chủ nghĩa xã hội.

Luôn quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Hồ Chí Minh coi đó là công việc trọng yếu, quyết định sự sống còn của Đảng. Thời chiến cũng như thời bình, để Đảng thực sự là một khối đoàn kết, thống nhất, thực sự được nhân dân tin yêu, thì phải luôn chú trọng các nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Trước hết và quan trọng nhất là phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng. Đó là, “phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”[5],v.v.. để tránh được những biểu hiện quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức, những  biểu hiện phân tán, cục bộ, hẹp hòi, bè phái, vô tổ chức, kỷ luật. Cũng theo Hồ Chí Minh, “trong Đảng ta, gồm có những người có tài, có đức...Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay. Trong Đảng ta hoàn toàn chưa tránh khỏi một vài kẻ vu vơ, những việc không chính đáng”[6]. Cho nên, trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải thành khẩn, trung thực, kiên quyết, ráo riết để không chỉ giúp đỡ mình và đồng chí mình sửa chữa khuyết điểm, cùng tiến bộ mà còn nhằm tăng cường khối đoàn kết, thống nhất nội bộ. Cùng đó, phải luôn giữ vững kỷ luật nghiêm minh, tự giác; nguyên tắc đoàn kết, thống nhất; tăng cường gắn bó mật thiết với nhân dân và nhất là phải chống chủ nghĩa cá nhân, thấm nhuần và rèn luyện đạo đức cách mạng liên tục, thường xuyên. Chừng nào cán bộ, đảng viên của Đảng chưa chiến thắng được những nọc độc của chủ nghĩa cá nhân- kẻ thù nội xâm, thì chừng đó trong Đảng vẫn sẽ còn những hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” và khi đó - nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ vẫn hiện hữu.

Thấm nhuần sâu sắc vai trò, sức mạnh của đạo đức cách mạng và quy luật phát triển của nó; đồng thời, coi đạo đức là cái gốc, cái căn bản, là nền tảng của người cách mạng, Hồ Chí Minh đã không chỉ yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng “như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” mà Người còn là một mẫu mực của tấm gương đạo đức cách mạng, luôn sống giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thống nhất giữa nói và làm trên tinh thần lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, v.v.. Cuộc đời Hồ Chí Minh là hiện thân đầy đủ nhất, cao đẹp nhất của tấm gương người cộng sản theo ý nghĩa và nội dung sâu rộng; tiêu biểu cho tinh hoa, khí phách dân tộc Việt, được truyền lại trong Đảng và trong nhân dân. Suốt đời, "Người luôn luôn gìn giữ đạo đức cao đẹp “cần kiệm liêm chính” và “chí công vô tư”, dùng 8 chữ đó để giáo dục cán bộ và nhân dân”.

Từ nhận thức rằng: Cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị, và nguy cơ thoái hoá, biến chất của một Đảng cầm quyền sẽ đến rất nhanh, nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng sa vào chủ nghĩa cá nhân, trở thành những kẻ tham ô, tham nhũng, quan liêu…, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng Đảng toàn diện về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức. Trước khi đi xa, Người đã căn dặn trong Di chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[7].

2. Gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với Chỉ thị 05-CT/TW để xây dựng và chỉnh đốn Đảng

Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, một đất nước Việt Nam đổi mới và hội nhập đang đứng trước những vận hội lớn, đi liền cùng những thách thức. Đây cũng là một bước ngoặt quan trọng, đòi hỏi Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” để ngang tầm với vị thế và vai trò của mình. Hơn bao giờ hết, trước những cam go thử thách mới, trước thực trạng tham nhũng đã trở thành quốc nạn và sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong Đảng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi như Văn kiện Đại hội Đảng XI, XII đã chỉ ra, những điều Hồ Chí Minh quan tâm, căn dặn, chỉ dẫn thường xuyên, liên tục về xây dựng và chỉnh đốn Đảng càng trở nên có ý nghĩa sâu sắc.

Để Đảng luôn xứng đáng với vai trò tiền phong, luôn trong sạch, vững mạnh; để khắc phục những hạn chế trong công tác xây dựng Đảng, tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII) gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (Chỉ thị 05) được coi là giải pháp đột phá, thiết thực, nhằm tạo chuyển biến trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước” và “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”…

Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra 27 biểu hiện của sự suy thoái, bao gồm: 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Từ đó, giúp cán bộ, đảng viên trong Đảng có thể tự soi mình vào 27 biểu hiện đó, để có định hướng tự sửa chữa, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, phát huy ưu điểm; đồng thời, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, lãnh đạo, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó. Từ đó, với quan điểm, “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật; kết hợp giữa “xây” và “chống”; trong đó, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, để thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Cụ thể hóa việc đưa Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Chỉ thị 05 vào cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải thấm nhuần sâu sắc hơn nữa những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng và nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4,5,6,7 khóa XII đồng bộ với các nghị quyết khác của Trung ương, của Quốc hội, Chính phủ, nhất là với Chỉ thị 05. Đây là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và cả hệ thống chính trị; là nhiệm vụ chính trị cấp bách để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần ngăn ngừa, đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội, để Đảng ngày càng “mạnh khỏe, chắc chắn” như Hồ Chí Minh mong muốn.

Năm 2018 và những năm tiếp theo, các cấp ủy đảng cần tiếp tục nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về tình hình, nguyên nhân; nhận diện dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Chủ động làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận, kiên quyết phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong các cơ quan công quyền. Nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống và đấu tranh có hiệu quả với những luận điệu tuyên truyền phá hoại của các thế lực thù địch; đồng thời, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy lùi tệ nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, với các Nghị quyết Trung ương 5, 6, 7 khóa XII, nhất là Nghị quyết Trung ương 7 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (Nghị quyết số 26-NQ/TW), với thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi đua yêu nước tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Chỉnh đốn phong cách làm việc, phát huy tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong công tác, trong sinh hoạt của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị nói riêng. Hướng về nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương thức công tác theo hướng chủ động trong mọi tình huống, tăng cường kiểm tra đôn đốc, đi sâu, đi sát, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc tại địa bàn cơ sở… Coi kết quả rèn luyện, phấn đấu của cán bộ, đảng viên về chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện đạo đức là cơ sở để đánh giá, xếp loại thi đua hằng năm của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị.

Quán triệt và thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng; trong đó, chú trọng tự phê bình và phê bình trên cơ sở của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; theo nguyên tắc dân chủ, đoàn kết, thống nhất để phát triển. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; thực hiện dân chủ trong Đảng; đưa các chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào sinh hoạt chi bộ hằng tháng trở thành nền nếp, góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, tạo chuyển biến về nhận thức và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên từ mỗi địa bàn cơ sở.

Chú trọng công tác tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, 5, 6, 7 khóa XII với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến cảu tập thể và cá nhân trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05. Kịp thời tuyên truyền, nhân rộng các mô hình, gương cá nhân trong nỗ lực rèn luyện đạo đức cách mạng, “nói đi đôi với làm”, “nói ít, làm nhiều”, dám làm, dám chịu trách nhiệm, làm việc khoa học...  của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương nói riêng trên các phương tiện truyền thông, tạo sự lan tỏa trong xã hội trên tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”./.

TS. Văn Thị Thanh Mai

Nguồn: tuyengiao.vn

-----------------------

[1]  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, xuất bản lần thứ 3, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr.289

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.280-281

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t.4, tr.19

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,  t.5, tr.308

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.302

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.611-612

VIDEO