Trước đó Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày Báo cáo tóm tắt Tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi).
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật. (Ảnh: theo Báo điện tử Chính phủ)
Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu tối đa ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, đồng thời đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý kỹ thuật đối với toàn bộ dự thảo Luật để hoàn thiện văn bản trình Quốc hội bảo đảm rõ ràng về văn phong, sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật.
Dự thảo Luật sau khi rà soát, tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện bao gồm 8 chương, 55 điều. So với Luật hiện hành, dự thảo Luật có 12 nhóm điểm mới, bảo đảm đúng mục tiêu sửa đổi Luật, bám sát chủ trương đổi mới tư duy trong công tác lập pháp và đáp ứng đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này.
Cụ thể, dự thảo Luật quy định các chính sách hỗ trợ việc làm cho tất cả người lao động, không có sự phân biệt. Các chính sách hỗ trợ việc làm đối với người khuyết tật; người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng bởi sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị… đã được quy định tại Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, Luật Người khuyết tật năm 2010, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020, pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, về lao động, về giáo dục nghề nghiệp, về thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật khác có liên quan. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật việc làm (sửa đổi). (Ảnh: theo Báo điện tử Chính phủ)
Về đối tượng vay vốn chính sách hỗ trợ tạo việc làm, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng giao Chính phủ, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu cho vay vốn giải quyết việc làm, để quyết định mở rộng đối tượng được vay với mức lãi suất thấp hơn và thể hiện tại điểm đ khoản 3 Điều 9 và điểm c khoản 4 Điều 9.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn. Có ý kiến đề nghị tăng mức hưởng lên 70% nhưng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng và cứ mỗi 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát và thấy rằng việc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (03 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.
Bộ luật Lao động (Điều 47 và Điều 48) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng tiền lương (50% mức tiền lương) và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương (100% mức tiền lương)) nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).
Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 03 tháng tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành. Mức này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp cho tới khi tìm được việc làm mới; phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật. Cụ thể tại Điều 39 Luật Việc làm (sửa đổi) đã quy định chi tiết mức hưởng, thời gian hưởng, thời điểm hưởng và hồ sơ, trình tự, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo đó, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại tháng cuối cùng đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa 12 tháng.
Về hiệu lực thi hành (Điều 54), Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, thời điểm Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026 sẽ phù hợp hơn, kịp thời phát huy hiệu quả những chính sách mới trong Luật, mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động, theo đúng tinh thần đẩy mạnh cải cách thể chế trong xây dựng hệ thống pháp luật.