Theo đó, tính đến 30/9/2022, việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính, các Bộ, ngành Trung ương giảm được 17 Tổng cục và tổ chức tương đương Tổng cục; giảm 08 Cục thuộc Tổng cục và thuộc Bộ; giảm 145 Vụ/Ban thuộc Tổng cục và thuộc Bộ; giảm được 90% phòng trong Vụ. Các địa phương giảm được 07 sở và 2.159 phòng thuộc Sở và thuộc UBND cấp huyện.
Các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) thuộc thẩm quyền quản lý của các Bộ, ngành, địa phương đến nay có 47.744 đơn vị (giảm 7.469 đơn vị, đạt 13,5%).
Về việc thực hiện tự chủ của các ĐVSNCL, tính đến thời điểm ngày 31/12/2021, trong tổng số 47.744 ĐVSNCL của toàn quốc có 287 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên (CTX) và chi đầu tư (chiếm 0,6%); có 2.848 đơn vị tự bảo đảm CTX (chiếm 5,97%); có 8.922 đơn vị tự bảo đảm một phần CTX (chiếm 18,7%); có 35.687 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm CTX (chiếm 74,7%). Như vậy, Tổng số ĐVSNCL tự bảo đảm CTX và chi đầu tư và tự bảo đảm CTX là 3.135 đơn vị, tương ứng tỷ lệ 6,6% tổng số ĐVSNCL của Bộ, ngành, địa phương, cụ thể:
Đối với các Bộ, ngành Trung ương: Trong tổng số 1.015 ĐVSNCL có 76 đơn vị tự bảo đảm CTX và chi đầu tư (chiếm 7,5%); có 294 đơn vị tự bảo đảm CTX (chiếm 28,9%); có 493 đơn vị tự bảo đảm một phần CTX (chiếm 48,6%); có 152 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm CTX (chiếm 15%). Theo đó, tổng số ĐVSNCL tự bảo đảm CTX và chi đầu tư và ĐVSNCL tự bảo đảm CTX của Bộ, ngành là 370 đơn vị (chiếm 36,4%).
Đối với các địa phương: Trong tổng số 46.729 ĐVSNCL có 211 đơn vị tự bảo đảm CTX và chi đầu tư (chiếm 0,45%); có 2.554 đơn vị tự bảo đảm CTX (chiếm 5,5%); có 8.429 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (chiếm 18%); có 35.535 đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm CTX (chiếm 76%). Theo đó, tổng số ĐVSNCL tự bảo đảm CTX và chi đầu tư và ĐVSNCL tự bảo đảm CTX của các địa phương là 2.765 đơn vị (chiếm 5,9%).
Có thể nói, việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy, nhất là đơn vị sự nghiệp công lập thời gian qua qua đã được những kết quả quan trọng, toàn diện. Việc giảm đầu mối đơn vị sự nghiệp công lập (đạt 13,5%) vượt chỉ tiêu 10% đề ra tại Nghị quyết số 19-NQ/TW của Trung ương, các tổ chức bên trong của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh được sắp xếp, thu gọn một bước.
Về tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tính đến 30/6/2022, tổng số đối tượng được giải quyết chính sách tinh giản biên chế theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 và Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 10/12/2020) ở các Bộ, ngành, địa phương là 78.234 người (chiếm tỷ lệ 22,6% so với số biên chế công chức, viên chức giảm giai đoạn 2016-2021); trong đó, các Bộ, ngành là 5.451 người và địa phương là 72.783 người.
Công tác quản lý biên chế và tinh giản biên chế đã được tổ chức triển khai bám sát theo yêu cầu của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, thực hiện theo đúng chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về quản lý biên chế thống nhất của hệ thống chính trị. Số liệu thống kê cho thấy, số lượng công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước năm 2021 được giao là 247.722 biên chế (Bộ, ngành Trung ương là 106.890; địa phương là 140.832), giảm 27.530 biên chế, trong đó: Biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước giảm 10,01%; biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước giảm được 11,67%; công chức cấp xã đã giảm được 9% so với số năm 2015, như vậy tính chung cả nước đã đạt được mục tiêu giảm tối thiểu 10% theo Nghị quyết của Đảng...