Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng chủ trì Hội thảo về Hội nhập ASEAN trong lĩnh vực lao động và nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN
Ngày 29/7/2025, tại Hà Nội, Bộ Nội vụ tổ chức Hội thảo về Hội nhập ASEAN trong lĩnh vực lao động và nền kinh tế chăm sóc trong ASEAN. Hội thảo được kết nối trực tiếp với Hội thảo trực tuyến của ASEAN do Ban Thư ký ASEAN điều phối về "Kinh tế chăm sóc và người lao động chăm sóc ở ASEAN". Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng chủ trì Hội thảo.
Hội thảo nhằm phổ biến tình hình hợp tác về lao động và việc làm của ASEAN giai đoạn 2020-2025 và dự kiến giai đoạn 2026-2030; chia sẻ trực tuyến của Ban Thư ký ASEAN và các chuyên gia khu vực những thách thức, cơ hội của nền kinh tế chăm sóc tại ASEAN; kinh nghiệm và thảo luận về các xu hướng, chính sách di cư lao động làm công việc chăm sóc và xem xét các cơ chế hiện hành để bảo vệ người lao động làm công việc chăm sóc tại ASEAN.
Di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng cho rằng, Việt Nam là nước có lực lượng lao động dồi dào và được đánh giá là cần cù, chăm chỉ. Theo số liệu thống kê năm 2024, Việt Nam có lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt 53 triệu người, trong đó lao động nữ gần 24,7 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động chỉ ở mức 2,24%. Tuy vậy, trình độ của lao động của Việt Nam vẫn còn hạn chế, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ ước tính chỉ đạt 28,3%, còn thấp so với nhiều nước trong khu vực (Singapore có tỷ lệ lao động có trình độ cao lên tới 50-60%, Malaysia khoảng 40-50%, Thái Lan khoảng 30-45%).
Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng cho rằng, Việt Nam đang đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động do trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế về ngoại ngữ và các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác
Theo Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang đối mặt với những cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động do trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, hạn chế về ngoại ngữ và các tiêu chuẩn lao động quốc tế khác.
“Là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện các chủ trương và chính sách trong nước nhằm hội nhập tốt hơn vào khu vực và thế giới, bao gồm hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng, tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế, trong đó cả việc nỗ lực thúc đẩy thực hiện Thỏa thuận về thừa nhận lẫn nhau, áp dụng Khung trình độ quốc gia theo 8 bậc của ASEAN. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tích cực thực hiện các cam kết khu vực trong lĩnh vực lao động, đi đầu với nhiều sáng kiến được quốc tế và khu vực đánh giá cao” – Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng nhấn mạnh.
Thứ trưởng cho rằng, lao động di cư nội khối là một đặc điểm quan trọng của thị trường lao động ASEAN. Theo các báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Ban Thư ký ASEAN, di cư lao động trong nội khối ASEAN có xu hướng ngày càng tăng trong những năm gần đây. Hiện có khoảng 10 triệu người lao động di cư đang sinh sống và làm việc tại các nước trong khu vực ASEAN.
Lao động di cư không chỉ đóng góp quan trọng cho nền kinh tế chăm sóc của các quốc gia ASEAN mà còn thường đảm nhận những công việc chăm sóc mà người lao động bản địa không đủ hoặc không muốn làm. Sự hiện diện của lao động di cư giúp giảm bớt áp lực cho hệ thống chăm sóc trong nước, đồng thời mang lại chuyển giao những kinh nghiệm và kỹ năng mới.
Toàn cảnh Hội thảo
“Tuy nhiên, lao động di cư cũng đối mặt với nhiều thách thức, từ điều kiện làm việc khắc nghiệt đến thiếu các quyền lợi cơ bản. Do đó, chúng ta cần có những chính sách và biện pháp bảo vệ quyền lợi của lao động di cư, bảo đảm họ được làm việc trong môi trường an toàn và công bằng” – Thứ trưởng Vũ Chiến Thắng nhận định.
Thứ trưởng hy vọng, các đại biểu tham dự sẽ cùng nhau trao đổi và chia sẻ quan điểm của Việt Nam trong việc triển khai Tuyên bố trong thời gian tới, góp phần tăng cường hội nhập lĩnh vực lao động của Việt Nam nói chung và lĩnh vực kinh tế chăm sóc nói riêng.
Đảm bảo người dân ASEAN có việc làm
Chia sẻ về tình hình hợp tác lao động trong ASEAN giai đoạn 2021-2025 và ưu tiên cho giai đoạn 2026-2030, bà Hà Thị Minh Đức – Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế nhấn mạnh vai trò của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN (ALMM) là một nền tảng quan trọng để các Bộ trưởng Lao động ASEAN phối hợp các chính sách và sáng kiến nhằm cải thiện tiêu chuẩn lao động, việc làm và bảo vệ người lao động trong nền kinh tế chăm sóc.
Bà Hà Thị Minh Đức - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nội vụ chia sẻ về tình hình hợp tác lao động trong ASEAN giai đoạn 2021-2025 và ưu tiên cho giai đoạn 2026-2030
Giai đoạn 2020-2025, các quốc gia thành viên ASEAN cam kết chuẩn bị cho lực lượng lao động ASEAN cho tương lai của việc làm. Một số cam kết gần đây bao gồm: Đồng thuận ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (2017); Tuyên bố ASEAN về Thúc đẩy Việc làm Xanh vì Công bằng và Tăng trưởng Bao trùm của Cộng đồng ASEAN, (Malaysia, 2018); Tuyên bố của Bộ trưởng Lao động ASEAN về Tương lai của việc làm: Nắm bắt công nghệ để tăng trưởng bao trùm và bền vững (Singapore - 2019); Tuyên bố ASEAN về phát triển nguồn nhân lực cho thế giới việc làm đang đổi thay và Lộ trình thực hiện (Việt Nam 2020).
Tại Việt Nam, các ưu tiên hợp tác khu vực về lao động và việc làm tập trung vào các nội dung: nâng cao tính cạnh tranh và năng suất của lực lượng lao động, thúc đẩy tạo việc làm, thúc đẩy quan hệ lao động và tăng cường an sinh xã hội. Bên cạnh đó, các hoạt động ưu tiên tại Việt Nam gồm: lồng ghép bình đẳng giới vào lĩnh vực lao động; Thúc đẩy hợp tác liên ngành nhằm tăng cường an sinh xã hội; nghiên cứu đánh giá về tính tương thích của Luật lao động trong khu vực.
Theo bà Hà Thị Minh Đức, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường như cạnh tranh giữa các nước lớn, xung đột vũ trang, rủi ro với thương mại quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu, ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của các quốc gia. Cùng với đó là vấn đề già hóa dân số ở một số quốc gia làm gia tăng nhu cầu tiếp nhận lao động…, hiện các quốc gia thành viên ASEAN đang tích cực xây dựng Chương trình công tác của Bộ trưởng Lao động ASEAN cho giai đoạn 2026-2030. Mục tiêu tổng quát nhằm đảm bảo người dân ASEAN có việc làm, có năng suất và lực lượng lao động có khản năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu công việc, từ đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi người.
Lao động trong nền kinh tế chăm sóc
Cũng tại Hội thảo, các đại biểu đã được nghe, trao đổi chuyên đề về kinh tế chăm sóc và người lao động chăm sóc ở ASEAN do Ban Thư ký ASEAN điều phối như: Tình hình của kinh tế chăm sóc ở ASEAN; Chăm sóc lao động di cư và an sinh xã hội cho người làm công việc chăm sóc ở ASEAN; Già hóa dân số và tác động kinh tế vĩ mô của nó trong ASEAN.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm
Theo đó, nền kinh tế chăm sóc bao gồm cả công việc chăm sóc được trả lương và không được trả lương. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe là một phần quan trọng của nền kinh tế chăm sóc, hỗ trợ sức khỏe thể chất và tinh thần. Giáo dục và giúp việc gia đình là những hoạt động chăm sóc cơ bản không được trả lương để duy trì gia đình và cộng đồng.
Tại khu vực ASEAN, công việc chăm sóc phi chính thức/không được trả lương vẫn chưa nhìn nhận một cách thích đáng, người làm công việc này không được bảo vệ bởi lưới an sinh xã hội đầy đủ trong khu vực ASEAN. Cùng với đó là sự chênh lệch giới đáng kể ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận công việc chăm sóc và phúc lợi xã hội giữa các nước ASEAN.
Chia sẻ kết quả hợp tác nghiên cứu giữa UN Women & Viện Khoa học Lao động và Xã hội năm 2023-2024 về công việc chăm sóc được trả lương và không được trả lương tại Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bích Thủy – Chuyên gia cho biết, thuật ngữ công việc chăm sóc không lương (CVCSKL) chưa được sử dụng trong các tài liệu chính thức, thay vào đó là cụm từ “nội trợ” hoặc “công việc gia đình”.
“Phụ nữ là người đảm nhiệm chính các công việc chăm sóc trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật trong hộ gia đình. Nữ là 2,34 giờ/ngày, nam là 1,31 giờ/ngày (2022), cao gấp 1,78 lần. Thời gian làm CVCSKL có xu hướng giảm dần cả ở nữ và nam. Hậu quả của phân phối không công bằng giữa phụ nữ và nam giới trong công việc chăm sóc không lương sẽ cản trở sự tham gia vào thị trường lao động và hạn chế cơ hội có việc làm chất lượng của phụ nữ; tác động tiêu cực đến cơ hội giáo dục và đào tạo của phụ nữ và trẻ em gái; tác động tiêu cực đến sức khỏe của phụ nữ; gia tăng nguy cơ phụ nữ bị bạo lực trên cơ sở giới, bạo lực gia đình” – bà Nguyễn Thị Bích Thủy chia sẻ.
Về công việc chăm sóc được trả lương ở Việt Nam, bao gồm các dịch vụ chăm sóc trẻ em, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, dịch vụ chăm sóc cho người khuyết tật. Nữ chiếm 72,8% số lao động làm việc trong ngành kinh tế chăm sóc (công việc chăm sóc có lương). Mặc dù chiếm phần lớn trong ngành kinh tế chăm sóc nhưng nữ lại chủ yếu tập trung làm việc ở nhóm “nghề giản đơn” & “chuyên môn kỹ thuật bậc trung”.
Năm 2023, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội ngành chăm sóc có lương ở nữ là 59,3% và nam là 80,3%. Tỷ lệ nữ trong ngành tham gia BHXH luôn thấp hơn nam ở tất cả nhóm tuổi. Khoảng cách thu nhập theo giới cũng có sự chênh lệch, nữ là 7,5 triệu đồng và nam là 9,6 triệu đồng/tháng.
Nhóm nghiên cứu giữa UN Women & Viện Khoa học Lao động và Xã hội đã đưa ra một số kiến nghị như: thay đổi nhận thức của bản thân người phụ nữ, của mỗi gia đình và toàn xã hội để nhận ra giá trị của việc chăm sóc, thúc đẩy sự chia sẻ trách nhiệm và phân công lại của CVCSKL; thúc đẩy các hệ thống chăm sóc công lập cung cấp các dịch vụ chăm sóc có chất lượng, dễ tiếp cận và giá cả phù hợp với nhiều người sử dụng; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc chăm sóc nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc tăng nhanh trong bối cảnh già hóa dân số; lồng ghép chiến lược tăng cường kinh tế chăm sóc; tiếp tục nghiên cứu về công việc chăm sóc và kinh tế chăm sóc ở Việt Nam…